HOME CHIA
SẺ LỜI CHÚA LINH ĐẠO THẦN
HỌC ĐỜI SỐNG SOME THEMES IN ENGLISH
DẪN NHẬP THẦN HỌC MẶC KHẢI SẼ
SỐNG NẾU BẠN TIN TÔN GIÁO NGOÀI KITÔ ÂN
SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG
ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG
Jptl
MỤC LỤC:
PHẦN I: ƠN CỨU ĐỘ CHO NGƯỜI NGOÀI KITÔ GIÁO
i). Hoàn
toàn do con người (Pélage)
ii). Ơn
nhưng không (Augustin)
ii). Con
người khởi đầu Thiên Chúa trợ giúp
c). “Ngoài
Giáo Hội không có ơn cứu độ”
i). Con
người tự mình có thể làm điều tốt (Abélard)
ii) .Con
người không thể làm gì tốt sau nguyên tội (Luther)
iii). Mọi
công việc của dân ngoại đều là tội (Baius)
b). Người
ngoài kitô giáo được cứu độ (Vatican II)
i). Không
phải không được cứu độ
ii). Người
ngoài kitô giáo được cứu độ
c). Tương
quan giữa ân sủng và tự nhiên
Ai trong chúng ta cũng biết đại đa số dân tộc châu Á sống
trong các tôn giáo ngoài kitô, như trong Ấn-độ giáo, Phật giáo, Khổng giáo, Lão
giáo, Cao đài, Hồi giáo. Trước sự kiện này, những kitô hữu bản xứ có tâm huyết
và đặc biệt những nhà truyền giáo trong vùng, thường bận tâm đặt vấn đề về:
·
phần rỗi của người sống
trong tôn giáo ngoài kitô,
·
giá trị cứu độ của các
tôn giáo ngoài kitô này.
Công đồng Vatican II trong tuyên ngôn về các tôn giáo
ngoài kitô, đã khuyến khích ki-tô hữu đối thoại[1]
với tín đồ các tôn giáo ngoài kitô (NK.2). Công đồng cũng minh nhiên nhìn nhận
nơi tôn giáo ngoài kitô có những điều chân thật và thánh thiện (NK.2).
Những người sống trong các tôn giáo
ngoài kitô có được cứu độ không?
Nếu được thì những người này
được cứu độ qua phương tiện gì? Các tôn giáo ngoài ki-tô có là phương tiện
Thiên Chúa dùng cứu độ con người không?
Phải chăng các tôn giáo ngoài
kitô có những “biểu tượng” Thiên Chúa dùng để ban ân sủng cứu độ?
Trong tinh thần vâng phục Giáo Hội,
nhiều dòng tu khuyến khích các thành viên dòng hội nhập văn hóa, nhằm loan báo
tin mừng đức Yêsu một cách có kết quả hơn[2];
sở dĩ vậy vì con người dễ đón nhận chân lý được diễn tả qua nền văn hóa dân tộc
mình hơn.
Tác phẩm này là một cố gắng đáp trả lời mời gọi của Giáo
Hội, nhằm đóng góp một viên đá trong công cuộc đối thoại tôn giáo, giúp cho
việc loan báo tin mừng đức Yêsu được dễ chấp nhận hơn nhờ loan báo Tin Mừng qua
những biểu tượng và ngôn ngữ thích hợp với dân tộc được truyền giáo. Đây cũng
là một nỗ lực nhằm đưa ra cách giải thích về ơn cứu độ cho người sống trong các
tôn giáo ngoài kitô. Vấn đề này còn đang được các nhà thần học tranh cãi[3].
Trong tâm tình kính mến cùng vâng phục Chúa Yêsu Ki-tô và Huấn Quyền Giáo Hội,
tác giả hoàn toàn vâng phục tất cả những gì Giáo Hội phán dạy về vấn đề này.
Tác giả
Thiên Chúa có ban ân sủng cứu độ cho những người ngoài
kitô giáo không[4]? Nếu Thiên
Chúa ban ân sủng cứu độ cho những người ngoài kitô giáo, đặc biệt với những
người sống trong tôn giáo ngoài kitô, thì Ngài ban ân sủng cứu độ cho họ qua
phương tiện gì?
Đó là những vấn đề gây bận tâm nhiều
đối với các nhà truyền giáo và những kitô hữu của những nước có nền văn hóa cổ
kính mà phần đông dân tộc họ sống trong các tôn giáo ngoài kitô!
Để trả lời hai vấn đề nêu trên,
·
đầu tiên sẽ xét vấn đề
ân sủng cứu độ cho kitô hữu và cả cho người ngoài kitô giáo;
·
sau đó cho thấy Thiên
Chúa ban ân sủng cứu độ cho người sống trong các tôn giáo ngoài kitô qua những
biểu tượng trong tôn giáo họ sống;
·
và cuối cùng sẽ bàn đến
tương quan giữa Công giáo và các tôn giáo ngoài kitô, cụ thể tương quan giữa bí
tích công giáo và biểu tượng qua đó ơn sủng được ban trong các tôn giáo ngoài
kitô.
Được giải thoát khỏi mọi đau khổ buồn phiền, được hạnh
phúc vĩnh cửu, là điều mọi người đều ao ước[5].
Kitô hữu tin rằng:
con người được Thiên Chúa
tạo dựng để thông chia hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa;
nhưng con người đã phản loạn
từ chối tình yêu Thiên Chúa và sự sống thần linh, do đó con người đã sống đau
khổ cả thể xác lẫn tinh thần;
để lại được sống hạnh phúc
với Thiên Chúa, con người cần được Thiên Chúa thứ tha tội lỗi.
Như vậy, hạnh phúc đích thực
không hoàn toàn tùy thuộc tầm tay
của con người!
Sau khi phạm tội phản nghịch chống lại Thiên Chúa, con
người còn có thể làm những điều tốt lành không?
Pélage người gốc Bretagne đã sống ở Rôma cuối thế kỷ IV
và sống ở Palestin vào đầu thế kỷ V, là đan sĩ. Pélage và những người chia sẻ
lập trường của ông cho rằng: Adam được tạo dựng như chúng ta hiện tại, nghĩa là
khả tử ngay cả trường hợp Adam không phạm tội. Tội của Adam chỉ làm hại, ảnh
hưởng trên Adam thôi chứ không trên con cháu, nghĩa là chúng ta chết là chuyện
“tự nhiên” chứ không phải tại tội nguyên tổ Adam[6].
Con người- ngay cả sau khi Adam phạm tội- có khả năng làm
lành lánh dữ mà không cần sự trợ giúp của Thiên Chúa. Nếu phải nói tới ân sủng
thì đó là chính hồng ân tự nhiên, sự tự do chọn lựa, luật luân lý, gương mẫu
của Đức Kitô, giáo lý của Ngài qua sự tha thứ tội lỗi[7]....
Ân sủng là chung cho hết mọi lương dân cũng như cho kitô hữu, cho người đạo đức
cũng như cho người bất chính[8].
Nếu phải nói ân sủng đặc biệt cho kitô hữu, thì đó là lời giảng dạy của Đức
Kitô mà thôi[9].
Pélage chủ trương con người có khả năng tránh tội và giữ
các giới răn của Thiên Chúa mà không cần sự trợ giúp đặc biệt gì của Thiên Chúa
ngoài những hồng ân tự nhiên là tạo dựng, ý chí tự do, lương tâm... Như vậy,
được cứu độ hay không là do con người hoàn toàn, do con người có muốn hay
không, không cần sự trợ giúp hay ân sủng của Thiên Chúa. Nói theo E. Portalié,
hệ thống của Pélage đặt nền trên sự độc lập tuyệt đối của tự do cũng như quyền
năng vô hạn của tự do để làm lành lánh dữ[10].
Như vậy có thể nói, cứu độ không là một ơn, nhưng là do tôi có muốn hay không
mà thôi!
Thánh Augustin giải quyết vấn đề ơn cứu độ của con người
bằng phạm trù chỉ thực tại “nguyên tội” và “ân sủng tiền định”.
Thiên Chúa không tạo dựng con người trong tình trạng khả
tử như chúng ta thấy hiện nay; chết là hậu quả của tội; Adam và con cháu ông
chết bởi vì Adam đã phạm tội[11]!
Sau khi Adam sa ngã, tất cả con người làm thành một tập thể bị kết án[12],
nghĩa là tất cả đều ở trong tình trạng khả tử[13],
ý chí tự do bị suy yếu[14],
và tất cả đều ở trong tình trạng tội lỗi[15].
Nói tóm lại, sau khi Adam phạm tội, cả ông lẫn con cháu
ông đều đáng và phải bị kết án, nghĩa là không được tham dự sự sống với Thiên
Chúa nữa! Con người cần được Thiên Chúa cứu độ thì mới được hạnh phúc vĩnh cửu!
Nếu tất cả đều đã phạm tội nơi Adam, thì ai được cứu độ?
Theo thánh Augustin, nếu cứ theo lẽ công bằng thì tất cả
đều phải sa hỏa ngục[16],
nhưng Thiên Chúa là Đấng hay thương xót, nên từ đời đời Ngài đã quyết định cứu
một số người được chọn khỏi hố thẳm bằng ân sủng[17];
còn những ngưòi khác tự kết án mình khi bỏ Thiên Chúa[18].
Số người được tuyển chọn đã được xác định[19],
không phải cứ là kitô hữu thì được cứu độ[20]
dù rằng đức tin là hồng ân của Thiên Chúa[21].
Đối với những người đã được tiền định, họ có thể lầm lạc trong một thời gian
nào đó, nhưng không bao giờ lầm lạc lúc cuối đời[22].
Việc bền đỗ đến cùng này là một hồng ân mà con người không đáng được, nhưng con
người có thể nhận được nhờ lời cầu nguyện[23].
Không ai trong chúng ta biết ai được cứu ai không được cứu, vì điều này không
thuộc thẩm quyền của chúng ta; điều chắc là việc này rất công bình và chân thực
chứ không do một quyền năng mù quáng và tùy tiện[24].
Augustin cũng cho rằng ân sủng không được ban cho hết tất
cả mọi người, vì nếu vậy ân sủng không còn tính nhưng không nữa[25].
Việc tiền định của Thiên Chúa cho người này được cứu độ không hàm chứa việc
tiền định kết án người khác, nhưng đơn thuần là họ không được chọn[26].
Với nhãn quan về ơn cứu độ như được trình bày ở trên,
thánh Augustin kết luận: tất cả công trình của dân ngoại là tội[27];
vì ý chí tự do bị nô lệ tội không thể làm gì khác hơn sự dữ[28].
Ngay những trẻ em (chưa chịu phép rửa) phải chịu đau khổ mà chết cũng không
được cứu độ, tuy nhiên các em đó cũng không bị kết án, mà có chỗ riêng[29].
Sở dĩ thánh nhân lập luận như vậy vì Ngài cho rằng, trên nguyên tắc dân ngoại
thiếu ân sủng vì không nhận biết Đức Kitô!
Tuy vậy cũng thấy thánh Augustin khẳng định: có những
hành động tốt nơi dân ngoại[30];
Ngài khẳng định điều này ngay cả trong cuộc bút chiến với Pélage. Augustin cũng
không cho rằng tất cả điều tội nhân kitô giáo làm đều xấu[31].
Khách quan mà nói, nhãn quan của Augustin về ơn cứu độ
dành cho dân ngoại là bi quan!
Trước hai lập trường trái ngược nhau của Pélage và
Augustin, Giáo hội có thái độ rõ ràng qua công đồng địa phương ở Carthage năm
418, và công đồng này đã được Giáo Hoàng Zosimus phê chuẩn.
Công đồng khẳng định:
·
sự hiện hữu của tội
nguyên tổ nơi con người hiện tại, nên trẻ em mới sinh cũng cần chịu phép rửa
tội (DS.223);
·
Adam chết là vì tội
(DS.222);
·
ân sủng không những tha
thứ tội lỗi để con người được công chính mà còn giúp con người tránh tội nữa
(DS.225).
Công đồng cũng kết án:
·
những người cho rằng ân
sủng giúp con người tránh tội chỉ theo nghĩa giúp con người hiểu các giới răn
mà mình phải tránh chứ không giúp chúng ta yêu và thực hành (DS.226);
·
những người cho rằng ân
sủng chỉ giúp chúng ta tránh tội được dễ dàng, còn nếu ân sủng không được ban
thì chúng ta cũng có thể giữ các giới răn được tuy rằng không dễ dàng (DS.227)[32].
Với những điều này, chúng ta thấy Giáo Hội đã chấp nhận
phần lớn lập trường của Augustin: dùng phạm trù “tội nguyên tổ” và “ân sủng” để
hiểu vấn đề ơn cứu độ. Cứu độ là một ơn Thiên Chúa ban cho con người với sự ưng
thuận của con người, chứ không phải chỉ nằm trong ý chí tự do của con người.
Công đồng không giải quyết vấn đề dân ngoại có được cứu
độ hay không!
Khi người ta đọc thư của Augustin gởi
cho phó tế Sixte (sẽ làm giáo hoàng năm 432) tại tu viện Hadrumète, các tu sĩ
cho rằng nếu vậy thì không thể bảo vệ ân sủng mà không phủ nhận tự do[33].
Nếu ân sủng của Thiên Chúa có thể thay đổi lòng người,
tại sao Thiên Chúa không ban ân sủng cho tất cả mọi người để họ yêu Chúa và
tránh khỏi bị kết án? Nếu ân sủng của Thiên Chúa có khả năng biến đổi con
người, và nếu từ đời đời Thiên Chúa đã tuyển chọn ai đó, thì làm sao họ còn tự
do[34]?
Thánh Augustin nhấn mạnh rất nhiều về sự siêu việt của
Thiên Chúa. Thiên Chúa ở trong chúng ta là nguồn của tất cả hữu thể, tất cả
chân lý và mọi sự tốt lành[35].
Tất cả những sự tốt lành đều từ Thiên Chúa, còn từ con người chỉ có dối trá và
tội lỗi[36].
Thánh nhân nhấn mạnh đến sự siêu việt của Thiên Chúa đến độ, có chỗ người ta
tưởng ngài cho rằng con người không còn tự do nữa sau khi Adam phạm tội[37].
Thực ra Augustin cho rằng ân sủng Thiên Chúa ban, không hủy diệt nhưng trái lại
đã làm kiên vững ý chí tự do[38].
Hơn nữa Thiên Chúa không đòi con người làm điều gì quá sức con người, Ngài muốn
con người làm điều mình có thể làm và xin điều mình không có thể[39].
Với Augustin, Thiên Chúa toàn năng có thể ban ân sủng cho
những người được tiền định, để họ được cứu độ; nhưng đồng thời, cũng theo thánh
Augustin, con người vẫn hoàn toàn tự do. Sau khi Adam phạm tội, con người bị nô
lệ tội nhưng vẫn còn ý chí tự do lựa chọn. Tự do đối với Augustin là yêu mến sự
thiện, hài lòng và thỏa mãn trong sự công chính, là tình trạng yêu Thiên Chúa
trên hết mọi sự[40].
Nơi Thiên Chúa chỉ là hiện tại, không có cái gọi là quá
khứ hay tương lai, chính vì thế việc tiền định người này được cứu độ hay người
kia phải kết án không làm mất tự do của con người[41].
Phản ứng lại quan niệm nhấn mạnh tính siêu việt của ân
sủng Thiên Chúa trên con người nơi thánh Augustin, cũng như để bảo vệ sự tự do
của con người mà họ lầm tưởng rằng thánh Augustin cho rằng đã bị mất bởi nguyên
tội, những tu sĩ tại Marseille chủ trương:
·
đức tin và những việc
làm tốt, được con người khởi đầu với ý chí tự do của mình,
·
rồi Thiên Chúa mới trợ
giúp bằng ân sủng của Ngài sau.
Quan niệm này được các nhà
tranh luận ở thế kỷ XVI gọi là Semi-pélagianisme. Những người tiêu biểu cho
quan niệm Semi-pélagianisme này là Vicent de Lérins, Fauste giám mục tại Riez;
còn những người bảo vệ lập trường của Augustin là Prosper d'Aquitaine, Hilaire,
Fulgence giám mục tại Ruspe và Césaire tổng giám mục tại Arles[42].
Césaire, tổng giám mục tại Arles đã họp với 13 giám mục khác
trong một công đồng địa phương tại Orange và đã đưa ra 25 qui phạm đức tin.
Công đồng này đã được Đức Giáo Hoàng Bonifacius II phê chuẩn năm 531.
Công đồng vẫn lấy lại quan điểm của Augustin cho rằng:
·
con người chẳng có thể
làm gì tốt độc lập với Thiên Chúa;
·
nếu con người có làm
điều gì tốt, thì chính Thiên Chúa đã làm điều tốt đó nơi con người[43];
·
khả năng nghe và đáp
trả lời Chúa, sự chuyển biến từ vô tín đến đức tin..., cũng đều là ân sủng của
Thiên Chúa, đều nhờ Thiên Chúa qua Thánh Thần của Ngài[44].
Như vậy chúng ta thấy công đồng không đồng quan niệm với
những tu sĩ tại Marseille cho rằng ý chí tự do con người đi trước ân sủng của
Thiên Chúa. Công đồng không thấy nơi lập trường của Augustin có sự đối nghịch
giữa tự do và ân sủng, giữa tự do và tiền định được cứu độ!
Con người được cứu độ nhờ đức Yêsu
qua Giáo Hội.
“Ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ[45]“.
Mệnh đề này đã được thánh Cyprianus khẳng định, và trong dòng lịch sử đã trở
thành khẳng định truyền thống của Giáo Hội Công Giáo. Vấn đề được đặt ra là:
những người không là ki-tô hữu, và ngay cả những kitô hữu không thuộc Giáo Hội
Công Giáo có được cứu độ không?
Khi khẳng định “ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ”, thánh
Cyprianus cũng như giáo quyền không phải là không biết:
·
Adam đã được cứu độ vì
được tha thứ tội lỗi (Kn.3; Kng.10, 1);
·
Abel dâng lễ tế làm đẹp
lòng Thiên Chúa (Kn.4, 4);
·
Henok được Thiên Chúa
cất đi vì đã bước đi với Thiên Chúa (Kn.5, 24);
·
Noe đã được ân nghĩa trước
mặt Thiên Chúa, ông là người công chính (Kn.6, 8-10), và đã được Thiên Chúa cứu
khỏi bị tiêu diệt, cùng ký giao ước với ông và dòng dõi loài người (Kn.6-9);
·
Menchisedek được coi là
tư tế của Thiên Chúa tối cao (Kn.14, 18tt);
·
Balaam là tiên tri của
dân ngoại nhưng đã được Thiên Chúa dùng để chúc phúc cho dân Ngài (Ds. 22-24).
Những người được nêu trên
không là kitô hữu, không thuộc về dân tộc Do thái, nhưng họ đã sống trong ân
nghĩa của Thiên Chúa, nghĩa là, họ được cứu độ.
Thánh Cyprianus cũng như giáo quyền biết rõ khẳng định
trong Tân ước: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu và được nhận biết chân
lý” (1Tm. 2, 4). “Hãy đi khắp thiên hạ rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.
Ai tin cùng chịu thanh tẩy thì sẽ được cứu thoát, còn ai không tin sẽ bị án
phạt” (Mc. 16, 15tt).
Chúng ta phải hiểu mệnh đề “Ngoài
Giáo hội không có ơn cứu độ” như thế nào?
“Ngoài Giáo Hội”, phải chăng là những người không được
rửa tội trong Giáo Hội Công Giáo? Khoảng năm 525, Fulgence de Ruspe cũng đã
nói: “không nên nghi ngờ rằng không chỉ những lương dân, nhưng cả các người Do
thái, các người lạc giáo và ly giáo chết ngoài Giáo Hội Công Giáo, đều đi vào
lửa vĩnh cửu đã chuẩn bị sẵn cho quỷ dữ và các thần của nó”[46].
Trong qúa khứ phần lớn người ta đã hiểu mệnh đề “Salus extra Ecclesiam non est”
theo nghĩa hẹp! Vậy phải chăng Giáo Hội Công Giáo cho rằng mọi hành vi của dân
ngoại đều là tội như Augustin chủ trương? Và như vậy phải chăng dân ngoại không
được cứu độ?
Không có ân sủng của Thiên Chúa con người không thể làm
gì tốt, liệu có thể khẳng định “dân ngoại sống không có ân sủng của Thiên Chúa”
không[47]?
Vấn đề ơn cứu độ của ki-tô hữu lẫn
của dân ngoại, được thần học sau thời thánh Augustin bàn đến. Vấn đề này liên
hệ đến những đề tài: nguyên tội, tự do và ân sủng, tiền định... Chúng ta tiếp
tục lược sơ qua những vấn đề này trong dòng lịch sử để biết rõ quan điểm của
Giáo Hội về vấn đề ơn cứu độ cho dân ngoại.
Vào thế kỷ XII, Phêrô Abélard chủ trương “con người với ý
chí tự do đủ để làm điều tốt lành”. Ý kiến này đã bị công đồng ở Sens và Đức
Giáo Hoàng Innocent II kết án năm 1140[48].
Qúa duy lý Abélard đã rơi vào lầm lỗi của Pélage dù ông
biết rõ lập trường của Pélage đã bị Giáo Hội kết án. Nguyên tội đối với chúng
ta, theo Abélard, chỉ là hình phạt chứ không là tội[49].
Chúng ta nhận thấy các lập trường đề cao ý chí tự do bị
Giáo Hội kết án đều hàm chứa ý con người muốn độc lập với Thiên Chúa trong việc
thực hành điều tốt; nhưng không có gì tốt lành ngoài Thiên Chúa; độc lập với
Thiên Chúa chỉ có tội ác!!!
Đầu thế kỷ XVI, Luther và sau đó những người Tin lành chủ
trương:
·
ý chí tự do con người
đã bị hủy hoại bởi nguyên tội,
·
con người không thể làm
gì tốt[50]....
Công đồng Trentô đã đưa ra giáo lý về nguyên tội, về công
chính hóa. Công đồng giữ lập trường truyền thống của Giáo Hội, và kết án những
người chủ trương rằng với công việc bằng sức lực tự nhiên của con người, hoặc
bằng việc biết luật không cần ân sủng, con người vẫn có thể được công chính hóa
trước mặt Thiên Chúa[51].
Đây là lập trường của Giáo Hội Công Giáo chống lại giáo lý của Pélage và của
các tu sĩ tại Marseille ở thế kỷ V-VI đề cao tự do của con người cách tuyệt
đối. Khi kết án những người đề cao tự do như một quyền năng tuyệt đối, Giáo Hội
không có ý khẳng định tự do con người bị hủy hoại hoàn toàn hoặc không còn tự
do nữa!
Công đồng cũng kết án những người cho rằng con người
không còn tự do trước ân sủng của Thiên Chúa[52],
nghĩa là con người không thể cưỡng lại lời mời của Thiên Chúa ngay cả khi con
người không muốn. Qua lời kết án này chúng ta thấy Giáo Hội chủ trương con
người có tự do chống lại Thiên Chúa và từ chối ân sủng của Ngài, nếu con người
muốn.
Công đồng cũng kết án những người cho rằng con người
không còn tự do nữa kể từ khi Adam phạm tội[53],
hoặc những người chủ trương rằng Thiên Chúa không chỉ làm điều tốt nơi con
người nhưng còn làm cả điều xấu nữa (không chỉ cho phép nó xảy ra)[54].
Qua lời kết án này, chúng ta thấy công đồng muốn bảo vệ giáo lý truyền thống về
tiền định: Thiên Chúa không tiền định ai xuống hỏa ngục, hiểu như Thiên Chúa
muốn họ xuống hỏa ngục!
Công đồng cũng kết án những người chủ trương rằng trước
khi được công chính hóa, mọi công việc dù được làm bởi bất kỳ lý do nào (của
những người chưa được công chính hóa này) đều là tội và bị Thiên Chúa tởm gớm[55].
Lập trường này mới thoạt nhìn tưởng như trái với lập trường của thánh Augustin
cho rằng mọi hành vi của dân ngoại đều là tội! Nhưng chúng ta phải hiểu lập
trường của thánh Augustin trong giả sử “dân ngoại không có ân sủng của Thiên
Chúa”. Nếu thật sự dân ngoại không có ân sủng của Thiên Chúa thì lời khẳng định
của thánh nhân đúng, nhưng thực tế không như vậy vì Thiên Chúa vẫn có thể ban
và vẫn ban ân sủng cho những người chưa được công chính hóa và những người chưa
tin Đức Yêsu.
Ba năm sau khi kết thúc công đồng Trentô, tức là năm 1567,
Đức Giáo Hoàng Piô V đã kết án một số mệnh đề của Baius chủ trương sai lầm về
tự do của con người và những hành vi của dân ngoại. Baius chủ trương:
·
“Tất cả mọi công việc
của dân ngoại đều là tội và các nhân đức của hiền nhân là lỗi lầm”[56];
·
“Tự do của con người,
nếu không có sự trợ giúp của ân sủng Thiên Chúa, không thể làm gì ngoài tội”[57].
Những mệnh đề của Baius này giống những mệnh đề của
Augustin, nhưng bầu khí của thời đại thì khác!
Cuối thế kỷ XVI và sang đầu thế kỷ XVII, vấn đề ơn cứu độ
được hàm chứa trong vấn đề tiền định.
Chỉ những ai được tuyển chọn và được tiền định mới được
cứu độ.
Nhưng phải chăng việc Thiên Chúa tiền định cho người này
được cứu độ người khác không được cứu độ là hoàn toàn theo “sở thích” của Thiên
Chúa? Nếu đúng như vậy thì còn đâu:
·
“Thiên Chúa là Đấng
nhân từ và muốn cho mọi người được cứu độ” (x. 1Tm.2, 4);
·
Tự do của con người để
chống lại ý Chúa hoặc thuận theo ý Chúa.
Nếu Thiên Chúa nhân từ và quyền năng vô cùng, thì:
·
không có hỏa ngục trong
trường hợp Ngài tiền định tất cả được cứu độ; nhưng như vậy dường như con người
chẳng còn tự do!
·
chẳng có hỏa ngục nếu
Thiên Chúa thực sự nhân từ!
Nếu con người có tự do để chống lại Thiên Chúa và từ chối
ân sủng của Ngài, thì e rằng Thiên Chúa không toàn năng và ân sủng của Ngài
không kiến hiệu!
Giả sử như Thiên Chúa toàn năng có thể biến đổi lòng
người bằng ân sủng của Ngài, và giả sử con người có tự do chống lại ân sủng của
Thiên Chúa hoặc thánh ý Chúa, thì Thiên Chúa dựa vào đâu để tiền định cho người
này được cứu độ, người khác không? Phải chăng Thiên Chúa dựa vào công nghiệp
của mỗi người, hoặc dựa vào thái độ của mỗi người đối với ân sủng của Thiên
Chúa mà tiền định?
·
Có một lập trường cho
rằng Thiên Chúa tiền định dựa vào công nghiệp hoặc thái độ của mỗi người đối
với ân sủng của Thiên Chúa được Ngài thấy trước từ thuở đời đời[58].
Lập trường này bảo vệ được sự tự do của mọi người và sự hợp lý của việc Thiên
Chúa tiền định, nhưng không cho thấy Thiên Chúa toàn năng qua ân sủng của Ngài!
·
Một lập trường khác cho
rằng Thiên Chúa tiền định người này được cứu độ người kia không, là hoàn toàn
do ý muốn Thiên Chúa chứ không do công trạng hoặc việc thấy trước công trạng
mỗi người[59]. Lập trường
này đề cao sự siêu việt và toàn năng của Thiên Chúa, nhưng không cho thấy con
người còn tự do.
Để giải thích con người có tự do cũng như quyền năng của
ân sủng Thiên Chúa, các thần học gia đã tạo ra những “từ” mới, như: ân sủng đủ
(grâce suffisante), ân sủng hữu hiệu (grâce efficace)...! Hai từ ngữ biểu lộ
hai lập trường quan điểm khác nhau, một khởi từ con người và một khởi từ Thiên
Chúa! Cả hai lập trường đều không sai nhưng bổ túc cho nhau[60]:
mỗi người được cứu độ hay không tùy thuộc thánh ý Thiên Chúa tiền định nhưng
cũng tùy ở tự do con người có chấp nhận ân sủng của Thiên Chúa hay không.
Mỗi người được cứu độ hay không là tùy thuộc Thiên Chúa
tiền định, nhưng phải chăng Thiên Chúa không muốn mọi người được cứu độ?
Dù Corneille Jansen giám mục giáo phận Ypres đã chết năm
1638 nhưng Đức Giáo Hoàng Innocent X vẫn kết án giáo lý của Jansen[61]
trong hiến chế Cum Occasione ngày 31.05.1653[62].
Những người chủ trương theo giáo lý của Jansen đã gây xáo
trộn trong Giáo Hội, và Đức Giáo Hoàng Alexander VIII đã kết án những sai lầm
của phái này ngày 07.12.1690. Phái Jansenisme chủ trương:
·
Trong mọi công việc,
lương dân đều phạm tội (DS. 2308);
·
Tất cả những cái không
bởi đức tin kitô siêu nhiên đều là tội (DS. 2311)[63].
Năm 1713 Giáo Hoàng Clemens XI kết án các mệnh đề của
Paschasius Quesnel trong hiến chế Unigenitus Dei Filius (DS.2400-2502). Về vấn
đề ơn cứu độ, Quesnel chủ trương:
·
Ân sủng không được ban
ngoài Giáo hội (DS. 2429);
·
Ý muốn mà ân sủng không
ưu thắng, không có ánh sáng gì ngoài lầm lạc, không có sự hăng hái nào ngoài sa
ngã, không có sức mạnh nào ngoài làm tổn thương chính mình. Ý muốn có khả năng
làm mọi sự dữ nhưng không có khả năng làm sự lành nào (DS. 2439)[64].
Nhìn chung, giáo lý về ơn cứu độ của trường phái
Jansénisme rất bi quan. Họ chủ trương Thiên Chúa chỉ cứu độ một số ít người, và
Đức Kitô cũng chỉ chết cho một số người được chọn. Ân sủng không được ban ngoài
Giáo Hội, nghĩa là lương dân không có ân sủng, và nếu không có ân sủng thì ý
chí tự do chỉ là nghiêng chiều về sự tội, và như vậy... không có ơn cứu độ cho
lương dân!
Về ân sủng cứu độ cho những người
ngoài kitô giáo, Đức Giáo Hoàng Piô IX trong Singulari quadam ngày 09.12.1854
nói: chúng ta phải giữ đức tin cho rằng ngoài Giáo Hội tông truyền Roma không
có ai được cứu vì chỉ có một con tàu cứu độ mà bất cứ ai nếu không vào thì phải
hư mất trong nước; nhưng cũng chắc chắn rằng những người làm việc dưới sự vô
tri bất khả ngoài tôn giáo chân thực, không có lỗi về vấn đề này dưới con mắt
của Chúa[65].
Ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ.
Đây là giáo lý truyền thống của Giáo Hội Công Giáo, nhưng chúng ta không được
hiểu mệnh đề trên một cách tự ý, mà phải theo giáo huấn của Giáo Hội.
Trong thư gởi Tổng Giám mục Boston, Thánh Bộ với sự đồng
ý của Giáo Hoàng Piô XII, đã phủ nhận lập trường cho rằng, những người không
công giáo- trừ những người dự tòng có ý rõ ràng gia nhập Giáo Hội Công Giáo-
không được ơn cứu độ[66].
Công đồng Vatican II trong hiến chế Giáo Hội (Lumen
Gentium) số 16 đã giải quyết dứt khoát và rõ ràng vấn đề ơn cứu độ cho những
người ngoài kitô giáo:
“Sau cùng, những ai chưa lãnh
nhận Phúc âm cũng được an bài bằng nhiều cách để thuộc về dân Thiên Chúa. Trước
tiên phải kể dân tộc đã lãnh lời hứa và giao ước, mà bởi dân ấy, Chúa Kitô đã
sinh ra theo thể xác (x. Rm. 9, 5). Họ là dân rất được yêu quý, bởi đã được
tuyển chọn vì cha ông họ: Thiên Chúa đã không ân hận gì vì đã ban ơn và kêu gọi
họ (x. Rm.11, 28-29). Nhưng kế hoạch cứu độ cũng còn bao hàm những ai nhận biết
Đấng Tạo Hóa: trước tiên phải kể người Hồi giáo, họ xưng rằng họ giữ đức tin
của Abraham; cùng với chúng ta họ thờ phượng Thiên Chúa duy nhất, nhân từ, Đấng
sẽ phán xét loài người trong ngày sau hết. Và những kẻ đang tìm kiếm Chúa trong
bóng tối và qua ngẫu tượng, Thiên Chúa mà họ không biết, cả những kẻ ấy, Ngài
cũng không xa họ, bởi vì chính Ngài ban cho mọi người sự sống, hơi thở và tất
cả mọi sự (x. Cv.17, 25-28). Và vì là Đấng Cứu Thế Ngài muốn mọi người đều được
cứu rỗi (x. 1Tm. 2, 4). Thực vậy những kẻ vô tình không nhận biết Phúc âm của
Chúa Kitô và Giáo Hội Người, nhưng nếu thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa trong công
việc mình theo sự hướng dẫn của lương tâm thì họ có thể được cứu rỗi. Cả những
kẻ vô tình chưa nhận biết Thiên Chúa cách rõ ràng, nhưng nhờ ơn Chúa cố gắng
sống đời chính trực, thì Chúa Quan Phòng không từ chối ban ơn trợ giúp cần
thiết để họ được cứu rỗi. Thực vậy Giáo Hội xem những gì là chân thiện nơi ho,
như để chuẩn bị họ lãnh nhận Phúc âm, và như một ân huệ mà Đấng soi sáng mọi
người ban cho hầu cuối cùng họ được sống. Nhưng thường con người bị ma quỷ gạt
gẫm, làm sai lạc phán đoán của mình khiến họ đánh đổi chân lý Thiên Chúa lấy sự
giả dối, khiến họ phụng sự tạo vật hơn là phụng sự Đấng Tạo Hóa (x. Rm.1,
21.25); hoặc vì họ sống chết như không có Thiên Chúa trên đời này, nên liều
mình rơi vào sự thất vọng tột độ. Vì hằng quan tâm làm vinh danh Thiên Chúa, và
cứu rỗi tất cả những người ấy và hằng nhớ lời Chúa truyền: “Hãy rao giảng Phúc
âm cho mọi tạo vật” (Mc.16, 15), nên Giáo Hội tận tâm lo lắng và cổ võ việc
truyền giáo”.
Trong số được trích dẫn trên của hiến chế về Giáo Hội,
Công đồng có cái nhìn rất thoáng về từ ngữ “thuộc về Giáo Hội”: không những anh
em ly khai mà cả những người sống trong tôn giáo ngoài kitô, những người vô
thần[67]
cũng có thể được kể như “thuộc về Giáo Hội”. Với quan niệm này của Công đồng,
thành ngữ “ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ” đã được giải thích dứt khoát và
mở ra cái nhìn lạc quan về ơn cứu độ.
Có thể nói vấn đề “ơn cứu độ cho
những người ngoài kitô giáo” là vấn đề “ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ”, cho
nên lịch sử thần học về vấn đề ơn cứu độ cho dân ngoại là lịch sử giải thích
thành ngữ “ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ”. Vấn đề này liên hệ đến những vấn
đề ân sủng, tội nguyên tổ, và bí tích- xét như những phương thế giao hòa con
người với Thiên Chúa và xóa tội nguyên tổ cũng như tội riêng...
Tín điều tội nguyên tổ là một yếu tố giải thích thành ngữ
“ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ”. Nhưng phải chăng tất cả mọi người chấp
nhận nguyên tội đều có cái nhìn bi quan về ơn cứu độ cho lương dân như Fulgence
de Ruspe, như Luther và phần lớn anh em Tin lành, như C. Jansen và những người
thuộc quan điểm Jansénisme, và như Léonard Feeney ở thế kỷ XX này? Lịch sử thần
học cho thấy không như vậy.
Theo thiển ý, có nhiều sai lầm trong
vấn đề này vì người ta đã đặt vấn đề không khéo. Người ta thường đặt vấn đề:
“Không có ân sủng con người có thể làm gì?” “Không có ân sủng, con người có thể
làm những hành vi tốt để được cứu độ không?”. Dù rằng đặt vấn đề như vậy người
ta vẫn có thể trả lời được và vẫn có thể trả lời đúng, nhưng thực tế có khi nào
con người sống mà không có ân sủng của Thiên Chúa đâu! Ngày nay các thần học
gia thường đặt vấn đề “tương quan giữa ân sủng và tự nhiên” để giải quyết vấn
đề nguyên tội, nguyên sủng, ân sủng, và vấn đề ơn cứu độ cho những người ngoài
kitô giáo.
Thánh Augustin đã từng chủ trương ân
sủng không được ban cho tất cả mọi người[68].
Nhưng nếu ân sủng không được ban cho tất cả mọi người, thì số phận của những
người không có ân sủng sẽ ra sao, đặc biệt những người sống ngoài kitô giáo[69]?
Từ quan điểm này phát sinh vấn đề: không có ân sủng người ta có thể làm gì và
không thể làm gì? Cách đặt vấn đề như vậy tồn tại trong suốt dòng lịch sử thần
học cho tới ngày nay[70].
Cách đặt vấn đề “không ân sủng con người có thể làm gì và
không thể làm gì” phản ánh quan niệm về con người:
·
Đầu tiên Thiên Chúa tạo
dựng con người trong tình trạng thuần túy tự nhiên (pura natura);
·
và rồi Ngài ban ân sủng
cho con người: ân sủng thánh hóa và các ơn ngoại nhiên;
·
Adam và Eva phạm tội,
con người mất ân sủng thánh hóa và ơn sủng ngoại nhiên;
·
con người ở trong tình
trạng tội do tội nguyên tổ.
Sau khi Adam phạm tội, con người sống trong tình trạng
không ân sủng, nói cách khác, trong tình trạng “tự nhiên”, hay đúng hơn tình
trạng “tự nhiên sa đọa”. Để có thể được cứu độ và có thể làm những hành vi cứu
rỗi, con người phải sống trong tình trạng ân sủng được ban lại nhờ tin vào Đức
Yêsu Kitô và chịu phép rửa trong Giáo Hội Người. Đối với những người không sống
trong tình trạng ân sủng, họ có được cứu độ không? Họ có thể làm những hành vi
cứu độ không? Với nhãn quan này, ơn cứu độ của dân ngoại thật mong manh và bi
quan! Cái nhìn này đã tồn tại lâu dài và ưu thắng trong lịch sử thần học.
Thời Trung cổ, thánh Bonaventura
(1221-1274) đã đưa ra lý thuyết hai con đường cứu độ: một qua bí tích và một không
qua bí tích, nhưng phần lớn được áp dụng cho kitô hữu.
Hồng y Nicola de Cusa (1401-1464) cũng chủ trương những
người ngoại được cứu độ và những tôn giáo ngoài kitô cũng là những phương tiện
Thiên Chúa dùng để cứu độ dân ngoại[71].
Nhưng quan điểm này không ảnh hưởng ngay trên nền thần học thời bấy giờ.
Nói chung, quan điểm “tự nhiên thuần
túy- ân sủng thêm vào cho tự nhiên- trở lại tình trạng tự nhiên không ân sủng”
đã ảnh hưởng quá sâu vào thần học kể từ thánh Augustin, và đã chi phối quan
niệm ơn cứu độ cho lương dân. Quan điểm về con người như trên khó cho ta cái
nhìn đúng đắn và chính xác về ơn cứu độ của những người ngoài kitô giáo.
Vào đầu thế kỷ này Ripalda cho rằng, con người được tạo
dựng hướng về trật tự siêu nhiên, thế nên mọi hành vi của con người đều có thể
mang ơn cứu độ hay đúng hơn đều có tính cứu độ[72].
Đặc biệt với K. Rahner (1904-1984), cái nhìn nhân học của
ngài giúp hiểu rõ và hiểu chính xác hơn quan điểm của Giáo Hội về ơn cứu độ cho
những người ngoài kitô giáo. Karl Rahner lấy lại tư tưởng của J. Maréchal cho
rằng con người có ước muốn tự nhiên hưởng kiến hạnh phúc. Ước muốn này tuy bị
điều kiện hóa nhưng vẫn là một khao khát tuyệt đối. Ước muốn hưởng kiến hạnh
phúc này, được gọi là tự nhiên vì nếu con người cố ý gạt bỏ nó, con người sẽ
không đạt được sự triển nở toàn vẹn và hạnh phúc[73].
Con người là thể xác và tinh thần, là tinh thần nhập thể,
là hữu thể cho Thiên Chúa, nghĩa là con người có khả năng đáp trả lời mời của Thiên
Chúa; và tùy mức độ con người đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa con người trở
nên hoàn toàn hơn, hạnh phúc hơn, triển nở trọn vẹn hơn. Hiểu như vậy, chương
trình tạo dựng con người và tạo dựng con người để con người được hưởng hạnh
phúc với Thiên Chúa, là một chương trình liên tục nơi Thiên Chúa; không phải
đầu tiên con người được tạo dựng trong tình trạng thuần túy tự nhiên (pura
natura), sau đó mới được nâng lên tình trạng siêu nhiên (surnatura). Thiên Chúa
tạo dựng con người, là để con người được hưởng sự sống của Thiên Chúa. Thiên
Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa ngay từ lúc tạo dựng con
người, chứ không phải Ngài tạo dựng con người giống cái gì khác, trước khi
giống hình ảnh Thiên Chúa.
Khái niệm “thuần túy tự nhiên” chỉ
xuất hiện vào thế kỷ XVI sau cuộc tranh luận với Baius. Nơi thánh Thomas người
ta cũng thấy tư tưởng cho rằng Thiên Chúa có thể không ban tính bất tử, tình
trạng an bình và ơn hưởng kiến cho con người; nhưng chỉ ở thế kỷ XVI người ta
mới nói một cách rõ ràng: trên nguyên tắc Thiên Chúa có thể tạo dựng con người
mà không cho con người được hưởng kiến Thiên Chúa[74].
Con người thuần túy tự nhiên là một giả sử không có thực.
Nói theo P. Schoonenberg, cách nói “con người trong tình trạng thuần túy tự
nhiên”, chỉ cho thấy rõ tính nhưng không của ân sủng, cũng tương tự như cách
nói “không ân sủng của Thiên Chúa con người có thể làm gì?[75]“.
Con người hiện tại luôn luôn sống trong lời mời gọi thông chia sự sống với
Thiên Chúa, không bao giờ con người hiện tại sống trong tình trạng con người
thuần túy tự nhiên. Nhưng tình trạng con người hiện tại cũng không “tự nhiên”,
mà đã là ân sủng, nghĩa là được ban “nhưng không” cho con người. Khi nói con
người ở trong tình trạng thuần túy tự nhiên, hay trên nguyên tắc có thể ở trong
tình trạng thuần túy tự nhiên, cho thấy “con người được gọi chia sẻ sự sống của
Thiên Chúa” là một hồng ân, chứ không có nghĩa “Thiên Chúa phải ban sự sống
vĩnh cửu cho con người”.
Ân sủng là tình yêu của Thiên Chúa
đối với con người được biểu lộ qua việc:
·
tạo dựng và mời gọi con
người thông chia sự sống của Thiên Chúa;
·
ban những đặc ân cho
con người trong những hoàn cảnh cụ thể;
·
tha thứ và giao hòa khi
con người phản bội;
·
ban Con Một Ngài là Đức
Yêsu cùng với Thánh Thần, làm con người trở nên dễ thương, dễ yêu và “đầy ơn
phước”.
Nếu con người được tạo dựng do tình yêu và cho tình yêu,
thì làm gì có trường hợp một ai đó sống ngoài ân sủng của Thiên Chúa? Như vậy,
chúng ta không nên đặt vấn đề “không có ân sủng, con người có thể làm gì và
không thể làm gì?”, cũng không nên nói “con người trong tình trạng thuần túy tự
nhiên” vì thực tế không có như vậy; và nếu chúng ta đề cập vấn đề như vậy,
chúng ta phải hiểu đây chỉ là giả thiết; và khi đặt vấn đề như vậy, chúng ta có
ý làm nổi bật tính “nhưng không” của tình yêu và ân sủng Thiên Chúa đối với con
người.
Nếu con người được tạo dựng vì tình yêu và cho tình yêu,
nghĩa là để thông chia sự sống vĩnh cửu với Thiên Chúa, để hưởng kiến Thiên
Chúa- thì ơn cứu độ là chuyện trong tầm tay của mỗi người, vì đó là điều Thiên
Chúa muốn: “Thiên Chúa muốn mọi người được cứu và nhận biết chân lý” (1Tm.2,4).
Thiên Chúa muốn; và Ngài toàn năng cùng rất mực khôn ngoan để thực hiện ý định
và chương trình cứu độ của Ngài; nên nếu ai không từ chối lời mời gọi của Ngài
đều được cứu độ. Hiểu như vậy, ơn cứu độ được ban cho tất cả mọi người kể cả
những người đang sống ngoài kitô giáo, vì thực sự họ vẫn thuộc về Hội Thánh của
Đức Yêsu Kitô một cách nào đó, nếu họ tin vào chân lý và thể hiện niềm tin này
bằng chính cuộc sống của họ, khi họ sống cho chân lý, cho tình yêu.
Trong thần học người ta phân biệt ân
sủng bất tạo và ân sủng thụ tạo; ân sủng thụ tạo lại được phân ra thường sủng[76]
và hiện sủng; hiện sủng còn được phân ra ân sủng đủ, ân sủng kiến hiệu, ân sủng
trợ giúp, ân sủng chữa trị v.v. Nhưng tất cả mọi ân sủng dù là ân sủng này hay
đặc sủng kia, ân sủng trợ giúp hay chữa trị, ân sủng kiến hiệu hay đủ..., tất
cả đều hướng tới ơn cứu độ; nghĩa là làm cho chúng ta được làm con Thiên Chúa,
được sống trong tình yêu của Thiên Chúa, được hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên
Chúa.
Có thể nói lịch sử đời người là lịch sử tình yêu và ân
sủng của Thiên Chúa đối với con người; nói cách khác lịch sử mỗi người là lịch
sử Thiên Chúa cứu độ người đó. Mọi biến cố xảy ra trong cuộc đời đều là biến cố
tình yêu, ân sủng, cứu độ. Chỉ khi nào con người, dù là kitô hữu hay lương dân,
cố tình từ khước tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa, con người mới bị kết án mà
thôi!
Thiên Chúa vui lòng ban ân sủng cứu độ cho tất cả mọi
người, kể cả những người không mang danh kitô hữu. Đây là chân lý đã được lịch
sử thần học soi sáng, các suy tư thần học và huấn quyền Giáo Hội trong mọi thời
đại và đặc biệt trong thế kỷ XX khẳng định. Vấn đề còn lại là: đâu là phương
tiện Thiên Chúa dùng để ban ân sủng cứu độ cho những người sống không mang danh
kitô hữu. Chúng ta sẽ bàn vấn đề này trong những trang tiếp theo.
Art. Articulus Bài
Art. cit. Articulo citato Bài đã dẫn
AUG. Augustinô
DS. DENZINGER-SCHONMETZER, Enchiridion Symbolorum
Definitionum et Declarationum de rebus fidei et morum, HERDER MCMLXIII
Ep. Epistula Thư
E.T. K. RAHNER, Ecrits Théologiques
F.V. Coll. FOI VIVANTE
GH. Vatican II, Hiến Chế Giáo Hội
Ibid. Ibidem Cùng
vậy
LG. Lumen Gentium
Hiến Chế Giáo Hội
NK. Ngoài kitô giáo. Tuyên ngôn của Công Đồng Vatican
II về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài kitô
op. cit. Opere citato Sách đã dẫn
p (pp). Trang
(các trang)
PG. J. P. MIGNE, Patrologiae cursus completus, Series
graeca, PARISIIS 1857 seq.
PL. J. P. MIGNE, Patrologiae cursus completus, Series
prima latina, PARISIIS 1844 sqq.
R. ROUET DE JOURNEL, Enchiridion patristicum, HERDER
MCMLXV
S.T. St.THOMAS, Summa Theologiae
TG. Sắc lệnh Truyền giáo của Công Đồng Vatican II.
·
Trong bài này, ký hiệu
Kinh Thánh dùng theo Cha Nguyễn Thế Thuấn, bản dịch in bởi DÒNG CHÚA CỨU
THẾ 1976.
·
Ký hiệu của Công Đồng
Vatican II dùng theo bản dịch của Giáo Hoàng Học Viện ĐALAT- VIỆT NAM
1972.
Ở đây chỉ ghi những sách hoặc những
bài báo đã được trích dẫn.
A. BALCHAND, The salvific value of non-christian religions
according to Asian Christian Theologians’ Writtings in Asian
Published Theological Journals 1965-1970. EAPI-MANILA 1973.
CH.
BAUMGARTNER, La Grâce du Christ, Coll. LE MYSTÈRE CHRÉTIEN, DESCLÉE- BELGIUM
1963
C.
BIHLMEYER et H. TUCHLE, Histoire de l'Eglise, t. I, SALVATOR 1962
E. C.
BLACKMAN, Faith- Faithfulness, trong INTERPRETER'S DICTIONARY OF THE
BIBLE, vol. II,
ABINGDON
PRESS- NEWYORK 1962
LEONARDO
BOFF, Le sacrement de mariage, trong CONCILIUM 87 (1973), pp. 21-31
E.
CASSIRER, An essay on man, YALE UNIVERSITY PRESS 1962
Y. CONGAR,
Vaste monde ma paroisse: Vérité et dimensions du salut,
TÉMOIGNAGE CHRÉTIEN 1968- FV.27
ÉTIENNE
CORNÉLIS, Valeurs chrétiennes des religions non-chrétiennes, CERF 1965
M-M. DAVY,
Les symboles et l'histoire, trong LE SYMBOLE, bộ RECHERCHES ET DÉBATS n.
29
PARIS XII (1959)
JOSEPH DE
FINANCE, Connaissance de l'être: Traité d'ontologie, DDB- PARIS 1966
HENRI DE
LUBAC, Dieu se dit dans l'histoire, CERF 1974 FV. 159.
GILDO DOMINICI, Notes de théologie morale. Les vertus
thélogale, GHHV sans date ni lieu
ANTON
DREXEL, Bí tích đại cương, GHHV- DALAT không ngày
ANTON
DREXEL, Traité de la grâce du Christ ou L'homme dans le Christ,
COLLÈGE PONTIFICAL SAINT PIE X- DALAT 1972
MIRCEA
ÉLIADE, Le sacré et le profane, GALLIMARD 1965
PAUL
FOULQUIÉ et RAYMOND SAINT-JEAN, Dictionnaire de la langue philosophique,
PUF- PARIS 1962
A. GAUDEL,
art. “Péché eriginel”, trong DTC XII/1 PARIS 1933
M.
HEINRICHS, Théologie catholique et pensée asiatique, CASTERMAN 1965
HUYỀN CHÂN,
Đạo Phật, PHẬT HỌC VIỆN TRUNG PHẦN-NHA TRANG 1965
LOUIS
LEAHY, Philosophie de l'homme, COLLÈCE PONTIFICAL ST. PIE X- DALAT 1974
éd. XAVIER
LÉON- DUFOUR, Vocabulaire de théologie biblique, CERF- PARIS 1966
YUSE PHẠM
THANH LIÊM, Thần học các tôn giáo ngoài kitô,
bđm- ĐALAT 1982
LÃO TỬ, Đạo
Đức Kinh, bản dịch NGUYỄN DUY CẦN, xb. KHAI TRÍ-SAIGON 1961
GABRIEL
MARCEL, Foi et réalité, AUBIER 1967 FV.38
HENRI
MAURIER, Essai d'une théologie du paganisme, L'ORANTE- PARIS 1965
J. VAN DER
MEERSCH, Art. “Grâce”, trong DTC VI/2
LOUIS
MILLET, Le pouvoir du symbolisme, trong Le Symbole, RECHERCHES ET DÉBATS n.29,
PARIS XII (1959)
LOUIS
MODEN, Le miracle- signe du salut, DDB. 1960
G.
MUSCHALEK, La création de l'alliance, Problème des rapports entre
la nature et la grâce,
trong MYSTERIUM SALUTIS VI, BURNS-OATES 1969
NARADA MAHA THERA, The Buddha and his teachings,
bản dịch của PHẠM KIM KHÁNH,
Đức Phật và Phật pháp, HẠNH PHÚC- SG.1971
GEOFFREY
PARRINDER, Revelation in other Scriptures, trong STUDIA MISSIONALIA,
vol.20 (1971),
éd. M. DHAVAMONY, sj, GREGORIANA 1971
É.
PORTALIÉ, art. “Augustin”, trong DTC I/1 PARIS 1923
É.
PORTALIÉ, art: “Abélard”, trong DTC I/1 PARIS 1923
B.
POSCHMANN, Pénitance et onction des malades, CERF 1966
KARL RAHNER,
Piété personnelle et piété sacramentelle, trong ÉCRITS THÉOLOGIQUES, t.
II, DDB 1960
KARL
RAHNER, La nature et la grâce, trong QUESTIONS THÉOLOGIQUES AUJOURD'HUI, t. II,
DDB-PARIS 1963
KARL
RAHNER, Pour la théologie du symbole, trong E.T., t. IX, DDB. 1968
K. RAHNER,
Parole et Eucharistie, trong E.T., t. IX, DDB. 1968
K. RAHNER,
Eglise et Sacrements, trong QUESTIONES DISPUTATAE 10, DDB.1970
A-M.
ROGUET, Renseignements techniques, trong THOMAS D’AQUIN, S.T. III, q.60-65, bản
dịch của A-M. ROGUET, DESCLÉE et Cie, PARIS 1945, pp.255-380
HENRI
RONDET, Gratia Christi, BEAUCHESNE ET SES FILS- PARIS 1964
HENRI
RONDET, Essais sur la théologie de la Grâce, BEAUCHESNE- PARIS 1964
E.
SCHILLEBEECKX, Le Christ sacrement de la rencontre de Dieu, CERF
1960 FV.133
HEINZ
ROBERT SCHLETTE, Towards a Theology of Religions, bản dịch của W.J.
O'HARA, HERDER-FREIBUG 1966, Coll.
QUESTIONES DISPUTATAE 14
P.
SCHOONENBERG, L'home dans le péché, trong MYSTERIUM SALUTIS VIII,
CERF 1970
OTTO
SEMMEILROTH, Art. “Mediatorship”, trong SACRAMENTUM MUNDI, BURNS-OATES 1969
GUSTAV
SIEWERTH, L'home et son corps, PLON-PARIS 1957
GUSTAVE
THILS, Propos et problèmes de la théologie des religions non-chrétiennes,
CASTERMAN 1966
St. THOMAS
d'AQUIN, Summa Theologiae, MARIETTI 1952
PAUL
TILLICH, Aux frontières de la religion et de la science, CENTURION 1970
JEAN
TROUILLARD, Symbole et distance, trong Le Symbole, RECHERCHES ET DÉBATS n.
29,
PARIS XII (1959)
JAN-
HENDRIK WALGRAVE, Un salut aux dimensions du monde,
bản dịch từ tiếng Hà Lan bởi
Emmanuel Brutsaert, CERF- PARIS 1970
CHO VINH DANH CHÚA HƠN
AMDG
AD MAIOREM DEI GLORIAM
Bài kết thúc thời gian học thần học,
xong 20:40’ ngày lễ thánh Phaolô Miki (06.02.85)
HOME CHIA SẺ LỜI CHÚA LINH ĐẠO THẦN HỌC ĐỜI SỐNG SOME THEMES IN
ENGLISH
DẪN
NHẬP THẦN HỌC MẶC
KHẢI SẼ SỐNG
NẾU BẠN TIN TÔN
GIÁO NGOÀI KITÔ ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG
Chúc các bạn an vui.
phamthanhliem
[1] Không thể đối thoại nếu cho rằng các tôn giáo ngoài kitô hoàn toàn sai lầm và không có giá trị cứu độ!
[2] Chẳng hạn nơi Dòng Tên. Xem Tổng Hội 32, 4, 53-56; 5, 1-2; Tổng Hội 33, 1, 37.41
[3] Chúng ta hiểu tại sao quyển sách của H. R. SCHLETTE, Towards a Theology of religions, bản dịch của W. J. O’HARA, HERDER-FREIBURG 1966 được xuất bản trong bộ QUESTIONES DISPUTATAE.
[4] Những ki-tô hữu bản xứ tự hỏi “ông bà tổ tiên mình là người ngoại, sống trong các tôn giáo ngoài kitô, liệu có được cứu độ không?”.
[5] Anh em duy vật cho rằng tất cả đều do vật chất mà có, thế nên không có thần thánh Thượng Đế chi cả. Chết là hết đối với con người, không có đời sau hoặc kiếp sau, không có gì phải mong hoặc hy vọng sau cái chết. Tuy quan niệm như vậy nhưng người duy vật vô thần vẫn ao ước khao khát hạnh phúc: hạnh phúc cá nhân và tập thể, dù nó hoàn toàn tại thế. Người duy vật vô thần ao ước một thế giới đại đồng, trong đó không còn cảnh người bóc lột người, và như thế là hạnh phúc, vì mọi người sẽ được hưởng theo nhu cầu nhưng vẫn làm theo khả năng của mình. Để có được thế giới đại đồng- nơi trong đó con người sống hạnh phúc- con người không được mong đợi một sự trợ giúp nào của thần thánh hoặc Thượng Đế (vì làm gì có thần thánh thượng đế), nhưng con người phải tự cứu lấy mình, phải đứng lên tự giải phóng mình khỏi cảnh áp bức bóc lột. Chỉ có con người mới cứu được con người. Chỉ có con người mới làm cho con người được hạnh phúc. Với anh em duy vật vô thần, không có vấn dề hạnh phúc vĩnh cửu, không có việc cứu độ hiểu như sự cứu độ từ trên, và như vậy cũng không có vấn đề ân sủng.
Anh em Phật tử cho rằng đời là bể khổ: sinh- lão- bệnh- tử. Để được hạnh phúc thật, nghĩa là thoát khỏi cảnh luân hồi nghiệp chướng, con người phải diệt dục để có thể đi vào cõi thường hằng hạnh phúc chốn niết bàn. Với quan niệm của đức Phật: không ai có thể cứu người khác khỏi cảnh luân hồi khổ ải nếu không phải là chính người đó. Mỗi người phải tự cứu lấy mình bằng diệt dục, thực thi bát chính đạo và giữ các giới luật. Với thời gian trong dòng lịch sử, phật tử đã cầu nguyện với đức Phật và các vị bồ tát để giúp mình chóng được giác ngộ, mau được siêu thoát,... Về điểm này đạo Phật đã tiến triển: coi việc giác ngộ, giải thoát không chỉ hoàn toàn do mình, nhưng cũng cần sự trợ giúp của chư Phật thập phương và các vị bồ tát.
Anh em Ấn Độ giáo tin vào Tuyệt Đối Brahman và cho rằng: con người được giải thoát khỏi nghiệp chướng và biết bao điều kiềm tỏa khác nhờ biết Brahman. Vì vậy họ đã khẩn cầu để được dẫn tới ánh sáng, tới sự sống và tới cái chân thực, và nhờ ân sủng họ được nhìn thấy Đức Chúa.
[6] C. BIHLMEYER- H. TUCHLE, Histoire de l' Eglise, t.1, PARIS 1962, p. 362
[7] cf. AUGUSTINUS, Epist. 194, 8 PL.33, 877
AUG., De gratia Christi et de peccato originali I, 3 PL.44, 361
cf. H. RONDET, Gratia Christi,
BEAUCHESNE ET SES FILS- PARIS 1948, pp. 118-119
[8] cf. AUG., Epist.186,1 PL.33, 816
[9] cf. AUG., De Gratia Christi, 33, PL.44, 376
[10] cf. E. PORATLIÉ, art. Augustin,
trong DTC., t. I/1, col. 2381 trích bởi H. RONDET, op. cit., p.113
[11] AUG., Ad Simplicianum, l.1, q.2, 20 PL.40, 125
l.1, q.1, 10 PL.40, 106
[12] Ibidem, q.1, 11 PL.40, 107
[13] Ibid., q.1, 10 PL.40, col.106
[14] Ibid., q.1, 11, PL.40, 107
[15] Ibid., l.1, q.2, 16 PL.40, 121
[16] AUGUSTINUS, De divers. quaest. ad Simpli. I, 16 PL.40, 121
In Joannem, tract.109, n. 2 PL.35, 1918
Serm.22, 9-10 PL.38, 153-154
Serm.27, 2-3 PL.38, 178-179
Epist.194, 14 PL.33, 879
In Joannem, tract. 87, n. 3 PL.35, 1853
[17] AUG., De civitate Dei, 21, 12 PL.41, 727
cf. H. RONDET, op.cit., pp. 133-135
[18] AUG., Contra duas epist. Pelag. I, 6-7 PL.44, 553
De corrept. et gratia 42 PL.44, 942
[19] Ibidem 39 PL.44, 940
[20] Ibid., 40 PL.44, 940
[21] AUG., De praedestinatione sanctorum 7 PL.44, 964
[22] AUG., In Joannem, tract. 45, n. 13 PL.35, 1725
De corrept. et gratia 14 PL.44, 941
[23] AUG., De corrept. et gratia 10 PL.44, 921
trích bởi H. RONDET, De gratia Christi, pp. 133-135
[24] AUG., Ad Simplicianum I, 2, 16-22 PL.40, 120-128 trích bởi A. GAUDEL, art. “Péché originel” trong DTC. XII/1, col. 379
[25] AUG., De dono perseverantiae, 16 PL.45,1002
cf. H. RONDET, op. cit., p.140: “Cur, inquit, gratia Dei non secundum merita datur? Respondeo: quoniam Deus misericors est. Cur, ergo, inquit, non omnibus? Et hic respondeo: quoniam Deus judex est. Ac per hoc et gratis ab eo datur gratia, et justo ejus in aliis judicio demonstratur quid in eis quibus datur conferat gratia”.
[26] Ibid., PL.45, 925
[27] AUG., Contra Juli., IV, 3, 14 sq PL.44, 743sq.
[28] AUG., Contra duas epist. Pelag., 3, 24; 2,9 PL.44, 607. 577
De spir. et lit., 3, 5 PL.44, 203
De Gratia Christi 26, 27 PL.44, 374
Tưởng cũng cần phải nói ở đây: Giáo Hội đã kết án Baius vì những mệnh đề tương tự. Xem DS.1927.1928. cf.CH. BAUMGARTNER, La grace du Christ, Coll. LE MYSTÈRE CHRÉTIEN- DESCLÉE- BELGIUM 1963, pp. 60-61
[29] AUG., De libero arbitrio, III, 23, 66 PL.32, 1303 sq
Không phải vì trẻ phải đau khổ mà được cứu độ (Ibidem, III, 23, 68 PL.32,1304)
trích bởi A. GUDEL, art. “Péché originel” trong DTC XII/1, PARIS 1933, col.376-377
[30] AUG., De spir. et lit. 28, 48 PL.44, 230
[31] AUG., De pecc. mer. et rem. 18, 31 PL.44, 169
Ad Simplic. I, 2 PL.40, 111-112
[32] Thật sự trong những quy phạm này, công đồng kết án chứ không khẳng định, những kết án cũng là một cách khẳng định.
DS.225 cf. AUG., Epist.175, 2 PL.33, 760: gratia Dei qua christiani sumus, qua et ipsum nostrae voluntatis arbitrium vere fit librum! Còn các đối thủ của Augustin lại nói: dicunt gratiam Dei ad hoc tantum valere, ut peccata praeterita dimittentur, non ut futura vitentur (apud AUG., De gratia et lib. arbit., I, 26 PL.44, 896-897);
DS.227 cf. AUG., Serm., 156, 13 PL.38, 856: iam ergo dicunt adiutricem esse gratiam Dei ad facillius facienda. Ista sunt verba eorum: ad hoc dedit Deus gratiam suam hominibus ut quod facere iubentur per liberum arbitrium facilius possint implere per gratiam.
[33] H. RONDET, Gratia Christi, PARIS 1948, p. 124
cf. AUG., Epist.214, 1-2, PL.33, 969. Các tu sĩ cho rằng nếu Thiên Chúa điều khiển ý muốn chúng ta, thì khi chúng ta phạm tội chúng ta đâu có lỗi và như vậy chúng ta đâu đáng trách mắng, người ta chỉ cần xin Thiên Chúa ban ơn cho chúng ta thôi (apud AUG., De correptione et gratia, 4-5 PL.44,918)
[34] H. RONDET, Essais sur la théologie de la Grâce,
PARIS 1964, trg.232
[35] AUG., De civitate Dei, VIII, 10 PL.41, 235: ab uno vero Deo atque optimo et naturam esse qua facti ad ejus imaginem sumus, et doctrinam qua eum nosque novermus, et gratiam qua illi cohaerendo beati sumus.
AUG., De libero arbitrio, II, 54 PL.32, 1270: “Omme bonum ex Deo sed quoniam non sicut homo sponte cecidit, ita etiam sponte surgere potest, per rectam nobis desuper dexteram Dei, id est Dminum nostrum Jesum Christum fide firma teneamus”
cf. H. RONDET, Gratia Christi, PARIS 1948, p.107.110
[36] AUG., Retract. I, 9, 6 PL.32, 598: “Quia omnia bona, sicut dictum est, et magna et media et minima a Deo sunt, sequitur ut ex Deo sit etiam bonus usus liberae voluntatis”.
AUG., In Joannem, V, 1 PL.35, 1414: Qui lequitur mendacium, de suo loquitur. Nemo habet de suo nisi mendacium atque peccatum. Si quid autem homo habet veritatis atque justitiae, ab illo fonte est, quem debemus sitire in hac eremo, ut ex eo quasi guttis quibusdam irrorati et in hac peregrinatione interim consolati, ne deficiamus in via, venire ad ejus requiem satietatemque possimus.
[37] AUG., Epist.217, 4, 12 PL.983: “nous avons perdu le libre arbitre pour aimer Dieu par suite de la grandeur du premier péché. cf. CH. BAUMGARTNER, La Grâce du Christ, BELGIUM 1963, p. 60
AUG., Enchir., 30 PL.40, 246: “Libero arbitrio male utens homo, et se perdidit et ipsum... cum libero peccaretur arbitrio, victore peccato amissum est liberum arbitrium”. Cf. H. RONDET, op. cit., p. 105-106
[38] AUG., De spiritu et littera, 52, PL.44, 23
cf. H. RONDET, op. cit., pp. 122-123
[39] AUG., De natura et gratia, 50 PL.44, 271
cf. DS. 1536; H. RONDET, ibid.
[40] CH. BAUMGARTNER, La Grâce du Christ, BELGIUM 1963, p. 60
[41] AUG., De divers. quaest. 17, PL.40, 15
Confess. XI, 16 PL.32, 815
De divers. quaest. ad Simplici., II, 2, 2 PL.40, 138-139
cf. H. RONDET, op. cit., p.141 ghi chú 1.
[42] cf. C. BIHLMEYER- H. TUCHLE, Histoire de l'Eglise, t.I, pp. 365-370
[43] DS.390 cf. AUG., Contra duas epis. Pelag., II, c. 9 n.21 PL.44, 586
DS.392 cf. AUG., In Evangelium Johann., tract.V, 1 PL.35, 1414
[44] Xem 25 quy phạm (canon) của công đồng Orange II năm 529, đặc biệt quy phạm 3-7; cf. DS.373-377
[45] CYPRIANUS CARTHAG., Ep. ad Iubaianum c.21, PL.3, 1169A Công Đồng LATÊLANÔ, De fide catholica, c.1, DS. 802
Thư của Thánh Bộ gởi TGM. BOSTON, DS. 3866-3873
[46] FULGENCE DE RUSPE, De fide ad Petrum, 38, 79
Xem Y. CONGAR, Vaste monde ma paroisse,
TÉMOIGNAGE CHRÉTIEN- FV. 27, p. 111
[47] Tôi e rằng không thể đặt vấn đề “không có ân sủng của Thiên Chúa, con người có thể làm gì?”, vì ân sủng của Thiên Chúa bao trùm tất cả, thâm nhập tất cả vũ trụ này!
[48] “Quod liberum arbitrium per se sufficit ad aliquod bonum”
cf. DS. 725; cf. E. PORTALIÉ, art. “Abélard”, trong DTC. I/1 PARIS 1923, col. 36-55. 47
[49] E. PORTALIÉ, Ibid.
[50] (44). MELANCHTHON, Loci com., trong CORP. REF., t.XXI, col. 88.92: Nulla est voluntatis nostrae libertas..., internos affectus prorsus nego in potestate nostrae esse.
[51] DS. 1551-1553
[52] DS. 1554
[53] DS. 1555
[54] DS. 1556
[55] DS. 1557
[56] DS. 1925
[57] DS. 1927
[58] Đây là lập trường của Louis Molina (1536-1600) và đặc biệt của Léonard Lessius (1554-1623), các ngài chủ trương Thiên Chúa tiền định ex praevisis meritis, nghĩa là post praevisa merita.
cf. H. RONDET, Essais sur la théologie de la grâce, pp. 210 seq.
Gratia Christi, pp.306 seq.
[59] Đây là lập trường của Hồng y giám mục Robert Bellarmin (1542-1621) và của Francois Suarez (1548-1617). Các ngài chủ trương Thiên Chúa tiền định ante pravisa merita. cf H. RONDET, Essais sur ..., pp. 211 seq.
Petau cho rằng chỉ có tiền định ante praevisa merita là của Augustin cf. H. RONDET, Gratia Christi, p. 330
Hai lập trường này đều được những người thuộc dòng Tên bảo vệ, và để tránh những tranh luận gây gương xấu, bề trên cả dòng Tên là Aquaviva đã truyền dòng chấp nhận lập trường tiền định ante praevisa merita của Suarez và Bellarmin.
[60] H. RONDET, Essais sur la théologie de la Grâce, pp.215 seq.
[61] Jansen chủ trương “Thiên Chúa không muốn cứu độ tất cả mọi người và Đức Kitô không chết cho tất cả mọi người”.
[62] Giáo lý này hàm chứa trong mệnh đề của Corneille Jansen và được phái mang tên ông trích dẫn nhiều: “Semipelagianum est dicere, Christum pro omnibus omnino hominibus mortuum esse aut sanguinem fudisse” (DS.2005)
[63] DS. 2308: Necesse est, infidelem in omni opere peccare.
DS. 2311: Omne, quod non est ex fide christiana supernaturali, quae per dilectionem operatur, peccatum est.
[64] DS.2429: Extra Ecclesiam nulla conceditur gratia.
DS.2439: Voluntas, quam gratia non praevenit, nihil habet luminis nisi ad aberrandum, ardoris nisi ad se praecipitandum, virium nisi ad se vulnerandum est capax omnis mali et incapax ad omne bonum.
[65] Cf. H. R. SCHILETTE, Towards a theology of religions, HERDER FREIBURG 1966, p.16 bản dịch của W. J. O'HARA trong bộ QUESTIONES DISPUTATAE 14.
[66] Ep. S. Officii ad archiep. Bostoniensem ngày 08.08.1949 cf. DS.3866-3873.
[67] Không do lỗi của họ, nghĩa là những người vô thần “vô tri bất khả thắng”.
[68] AUG., De dono perseverantiae, 16 PL.45, 1002:
“Cur, inquit, gratia Dei non secundum merita datur? Respondeo: quoniam Deus misericors est. Cur ergo, inquit, non omnibus? Et hic respondeo: quoniam Deus judex est. Ac per hoc et gratis ab eo datur gratia et justo ejus in aliis judicio demonstratur quid in eis quibus datur conferat gratia”.
cf. H. RONDET, op. cit., p. 140
[69] Trên nguyên tắc những người này thiếu ân sủng vì họ không biết Đức Kitô. Có chỗ Augustin cho rằng tất cả hành động của lương dân là tội (AUG., Jul., IV, 3, 14 sq. PL.44, 743sq. etc.); nhưng cũng có chỗ thánh nhân cho rằng nơi lương dân cũng có những hành vi tốt (cf. AUG., De spir. et lit., 28, 48 PL.44, 230).
[70] ST. THOMAS, S.T., Ia-IIae, q.109, a.1-10
V. D. MEERSCH, art. “Grâce”, trong DTC.VI/2, col.1571-1594
A. DREXEL, Traité de la Grâce (ou l'home dans le Christ),
COLLÈGE PONTIFICAL St. PIE X- ĐALAT, sans date, pp. 64-98
[71] G. THILS, Propos et problèmes de la théologie des religions non-chrétiennes, CASTERMAN 1966, p. 73
J. PHẠM THANH LIÊM, Thần học các tôn giáo ngoài kitô, BĐM 1982, trg.12
[72] Cf. H. RONDET, Essais sur la théologie de la Grâce, trg 49 ghi chú 27
[73] K. RAHNER, La nature et la grâce,
trong QUESTIONS THÉOLOGIQUES AUJOURD'HUI, t.II,
DDB-PARIS 1963, trang 18-19
Theo G. Muschalek, Cajetan đã phủ nhận lập trường cho rằng con người có ước vọng tự nhiên hưởng kiến Thiên Chúa. Cũng theo Muschalek, trong tư tưởng của thánh Thomas có nói con người có ước ao hưởng kiến Thiên Chúa trực tiếp. Ước muốn này có cơ cấu của bản tính con người được tạo dựng.
Tuy vậy đối với thánh Thomas, việc hưởng kiến trực tiếp Thiên Chúa vẫn là một hồng ân nhưng không, mà con người không thể tự mình đạt được. Hồng ân này con người không chấp nhận nó như từ ngoài hoặc không quan trọng với mình, nhưng ngược lại như một hồng ân mà con người ao ước khao khát từ chính tâm hồn mình.
(Xem G. MUSCHALEK, La création et l'alliance: problème des rapports entre la nature et la grâce, trong MYSTERIUM SALUTIS, VI, trg.337-354.344).
J-H. WALGRAVE coi con người là một hữu thể cho Thiên Chúa. cf. JAN- HENDRIK WALGRAVE, un salut aux dimensions du monde, dịch từ tiếng Hòa Lan bởi EMMANUEL BRUTSAERT, CERF-PARIS 1970, pp.43-44.
[74] G. MUSCHALEK, op.cit, p. 343
[75] P. SCHOONENBERG, L'home dans le péché,
trong MYSTERIUM SALUTIS, VIII, p. 45
[76] Thường sủng hay thánh sủng là ân sủng làm cho con người được làm con Thiên Chúa, được sống trong tương giao thiết thân với Thiên Chúa.