HOME    CHIA SẺ LỜI CHÚA    LINH ĐẠO    THẦN HỌC    ĐỜI SỐNG    SOME THEMES IN ENGLISH 

DẪN NHẬP THẦN HỌC   MẶC KHẢI   SẼ SỐNG NẾU BẠN TIN   TÔN GIÁO NGOÀI KITÔ   ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG

 

ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG

Jptl

 

MỤC LỤC:


 

 

PHẦN III: TƯƠNG QUAN GIỮA CÔNG GIÁO VÀ TÔN GIÁO KHÔNG KITÔ.. 1

A. ĐỨC TIN.. 2

a). Sống theo lương tâm.. 3

i). Đức tin cần thiết để được cứu độ. 4

ii). Chọn lựa căn bản. 5

b). Qua việc thờ phượng trong tôn giáo. 7

B. BÍ TÍCH CÔNG GIÁO VÀ BIỂU TƯỢNG TÔN GIÁO KHÔNG KITÔ.. 10

a). Đặc tính của bí tích Công Giáo. 10

i). Sinh ân sủng do sự (ex opere operato) 11

ii). Đức Yêsu thiết lập. 11

b). Biểu tượng ban ân sủng nơi tôn giáo không kitô. 12

i). Ơn công chính ngoài bí tích cho kitô hữu. 12

ii). Người Do Thái giáo thời Cựu Ước và hiện tại 15

iii). Người sống trong tôn giáo ngoài kitô. 16

C. TRUYỀN GIÁO.. 16

i). Biểu lộ công giáo tính. 17

ii). Hội Nhập Văn Hóa. 18

iii). Đối thoại tôn giáo. 19

Thay lời kết: BIỂU TƯỢNG, ÂN SỦNG VÀ THÁNH THẦN.. 21

NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT. 23

THƯ MỤC.. 25

 


PHẦN III: TƯƠNG QUAN GIỮA CÔNG GIÁO VÀ TÔN GIÁO KHÔNG KITÔ

 

            Tất cả mọi người- nếu họ được cứu độ, dù chưa nhận biết Thiên Chúa hoặc đang sống trong các tôn giáo ngoài kitô- đều được cứu độ nhờ đức Yêsu Kitô và Giáo hội của Người, vì chỉ có một Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người (1Tm.2, 5) và vì dưới gầm trời này không có một Danh nào khác đã được ban xuống cho nhân loại để phải nhờ vào đó mà chúng ta trông được ơn cứu thoát (Cv.4, 12), cũng như vì ngoài Giáo Hội không có ơn cứu rỗi.

            Kitô hữu được cứu độ nhờ:

·        tin vào Thiên Chúa và đức Yêsu Kitô, vì “không có đức tin, thì vô phương làm đẹp lòng Thiên Chúa” (Dt.11, 6);

·        lãnh nhận bí tích rửa tội và các bí tích khác;

·        ăn ngay ở lành, sống giới răn yêu thương như Thiên Chúa truyền cho chúng ta.

Còn những người chưa nhận biết Thiên Chúa cách rõ ràng, nghĩa là họ chưa tin và không lãnh nhận các bí tích như chúng ta, phải chăng họ được cứu độ chỉ nhờ ăn ngay ở lành, sống theo lương tâm? hay họ vẫn được cứu nhờ đức tin, qua các biểu tượng xét như dấu chỉ của thực tại vô hình? Cũng vậy đối với những người sống trong các tôn giáo ngoài kitô, họ có được cứu bởi đức tin không? và đức tin nào? và các biểu tượng giúp họ nhận ân sủng cứu độ như thế nào?

            Trong phần tương quan giữa Công Giáo và các tôn giáo ngoài kitô này, chúng ta sẽ xét về:

đức tin;

tương quan giữa bí tích Công Giáo và biểu tượng ban ân sủng nơi các tôn giáo ngoài kitô;

công giáo tính của Giáo Hội thể hiện qua việc truyền giáo.

A. ĐỨC TIN

            Thánh Phaolô trong thư gởi tính hữu Do Thái khẳng định: “Không đức tin thì vô phương làm đẹp lòng Thiên Chúa” (Dt.11, 6).

Từ ngữ

            Vậy đức tin là gì? Để chỉ điều này tiếng Do thái dùng những chữ:

·        nma (Aman) gợi lên sự chắc chắn, vững chãi; với từ ngữ này bản LXX dịch bằng chữ PistiV, Pisteuw, Alhqeia, và bản phổ thông dịch bằng chữ fides, credere, veritas;

·        hTB (Batah) gợi lên sự bảo đảm, tín thác; bản LXX dịch bằng ElpiV, Elpizw, Pepoiqa; bản phổ thông dịch bởi spes, sperare, confido[1].

Tin vào ngôi vị

            Tin là một hành vi nhân linh, nghĩa là với tất cả tự do và ý chí, chấp nhận một ai đó, cho những điều họ nói là thật, chắc chắn, trông cậy được[2]. Hiểu như vậy, tin là sự gặp gỡ giữa hai ngôi vị, là một cách biết, là sự thông hiệp giữa hai ngôi vị. Đối với kitô hữu trong lãnh vực tôn giáo, tin là biết Thiên Chúa hiện hữu, chấp nhận tất cả những gì Ngài mặc khải, thông hiệp với Thiên Chúa trong tình yêu.

            Đối tượng đức tin không phải là một sự vật nhưng là một ngôi vị. Người ta không bao giờ tin vào cái gì, nhưng tin vào ai đó, với đối tượng là một sự vật, người ta có thể xác tín, chứ không tin, không đặt niềm tin tưởng vào một sự vật[3].

Tin phó thác

            Tin không chỉ chấp nhận ai đó hiện hữu, nhưng còn là tin tưởng phó thác trông cậy nơi người đó. Tôi tin vào một ngân hàng, là tin vào người lãnh đạo ngân hàng đó có khả năng đáp ứng những đòi hỏi cũng như hy vọng của tôi[4]. Một người mẹ tin vào con mình dù đã bao lần làm cho bà thất vọng, không phải vì bà đơn sơ hy vọng hão hoặc ảo tưởng nơi người con, nhưng còn vì cái sâu xa khác nữa. Như vậy đức tin là hành vi qua đó con người phải dấn thân, và như vậy cũng có thể nói, có tính chất như một cuộc đánh cá phần nào, đòi con người tin phải liều lĩnh, liều lĩnh nhưng vẫn có sự chắc chắn nào đó.

Biểu lộ qua việc làm

            Đức tin phải được biểu lộ qua việc làm. Thánh Yacôbê tông đồ nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Yac.2, 17). Đức tin là lời đáp lại mặc khải của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa không mặc khải, thì con người không thể biết về Thiên Chúa, và như vậy không thể tin vào Thiên Chúa[5]. Ngày nay Thiên Chúa vẫn tiếp tục mặc khải cho con người qua trung gian những người rao giảng, và con người vẫn đáp ứng bằng đức tin, bằng sự vâng phục đức tin: “Làm sao kêu lên Đấng mà người ta không tin? làm sao tin Đấng mà người ta không được nghe? làm sao nghe nếu không có người rao giảng?” (Rm.10, 14).

            Đức tin có được là do mặc khải. Vì con người là tinh thần và thân xác, là tinh thần nhập thể, nên Thiên Chúa mặc khải cho con người qua những dấu chỉ khả giác, và rồi con người đáp trả bằng lòng tin được biểu lộ qua lời nói, qua việc làm, qua những dấu chỉ khả giác.

            Cũng như trong lãnh vực tình yêu, người ta không chỉ yêu bằng lời nói nhưng còn bằng cả việc làm, nếu chỉ nói yêu mà không có hành động cụ thể đi theo, e rằng người ta không yêu thật (1Yn.3, 11-18). Nếu ta chỉ nói ta tin, mà không diễn tả đức tin bằng hành động, thì e rằng chúng ta cũng không tin thật. Thánh Yacôbê tông đồ nói: “Hãy cho tôi thấy đức tin không việc làm của anh, và tôi sẽ lấy việc làm của tôi mà cho anh thấy đức tin của tôi... cũng như thể xác không hồn là thây chết” (Yac.2, 18.26).

            Chỉ qua dấu chỉ mà hữu thể nhân linh mới có thể gặp gỡ nhau, và nếu không qua dấu chỉ, không có cuộc gặp gỡ đích thực giữa con người[6]. Chính vì vậy Thiên Chúa đã nhập thể, cần phải có người đi rao giảng, và cũng cùng lý do mà con người diễn tả đức tin của mình qua những dấu chỉ, qua lời nói và qua chính cuộc sống của mình với những việc làm. Trong mục này chúng ta tìm hiểu đức tin của những người chưa nhận biết Thiên Chúa, và đức tin của những người sống trong các tôn giáo ngoài kitô được diễn tả qua cuộc sống thường ngày.

a). Sống theo lương tâm

            Ở đây chúng ta đề cập đặc biệt đến người chưa nhận biết Thiên Chúa, hoặc những người cũng tin có sự hiện hữu của một Đấng Tuyệt Đối nhưng họ không sống trong một tôn giáo nào.

            Với những người vô thần, công đồng Vatican II dạy: “Cả những kẻ chưa nhận biết Thiên Chúa cách rõ ràng nhưng nhờ ơn Chúa, họ cố gắng sống đời chính trực, thì Chúa quan phòng không từ chối ban ơn trợ lực cần thiết để họ được cứu rỗi” (LG.16). Lời dạy của công đồng hoàn toàn phù hợp với truyền thống của Giáo Hội: “Thiên Chúa không từ chối ân sủng cho những người làm điều họ phải làm”[7]. Trong lịch sử thần học chúng ta thấy Giáo Hội dạy những người chết trong tình trạng nguyên tội không được thừa hưởng Nước Trời, thế nhưng điều này không hàm chứa khẳng định “một người chết không chịu phép rửa tự bản chất phải loại khỏi Nước Trời”[8]. Đức Giáo Hoàng Innocente III khi nói về các con trẻ chết trong tình trạng không được lãnh phép rửa, Ngài nói: “Thiên Chúa không thể nào lại để cho bao nhiêu con trẻ phải hư mất đời đời”[9].

i). Đức tin cần thiết để được cứu độ

            Với lời khẳng định của công đồng trong LG.16, chúng ta giải thích làm sao lời kết án của Đức Giáo Hoàng Innccentê XI năm 1679 về những mệnh đề của những người chủ trương nền luân lý “rộng rãi”? Mệnh đề bị kết án chủ trương:

·        “Đức tin Thiên Chúa duy nhất được coi là cần thiết, sự cần thiết phương tiện, không phải đức tin rõ ràng Thiên Chúa Đấng thưởng phạt” (DS.2122);

·        “Đức tin theo nghĩa rộng, từ chứng từ các tạo vật hay bởi nguyên do tương tự đủ để được công chính hóa” (Ds.2123).

            LG.16 cho rằng, không những người tin Thiên Chúa hiện hữu nhưng cả những người chưa nhận biết Ngài cũng có thể được cứu rỗi. Sở dĩ những người chủ trương nền luân lý rộng rãi bị kết án vì họ cho rằng chỉ cần tin có Thiên Chúa là đủ để được cứu độ, và như vậy hàm chứa phủ nhận sự cần thiết của việc mặc khải trong dòng lịch sử. Lập trường chủ trương như vậy rõ ràng là sai lầm!

Trường hợp không tin không có tội

            Lời kết án của Đức Giáo Hoàng Innocentê XI ở trên không áp dụng cho những người không nhận biết Thiên Chúa khi họ không thấy rõ phải tin; vì người ta chỉ bị buộc cách luân lý phải tin khi người ta thấy rõ sự khả tín[10], còn nếu không thấy rõ thì không buộc phải tin.

            Ai cũng biết là mọi người đều được hưởng mặc khải tự nhiên qua tạo vật, lương tâm. Nếu con người cố tình từ chối khi thấy rõ phải tin, người đó có lỗi và như vậy coi như cố tình từ chối ơn cứu độ; nhưng nếu người đó không thấy rõ phải tin, có thể vì một lý do nào đó như ảnh hưởng nền giáo dục và xã hội, vì hiểu sai về Thiên Chúa[11],v.v..., người đó không buộc phải tin; và như vậy khi người đó không tin, người đó không có lỗi; trường hợp sau này là trường hợp được công đồng nói tới.

Đáp trả mặc khải tự nhiên

            Dầu ngày nay vẫn có những người chủ trương vô thần, nhưng thời gian gần đây có những tác phẩm nói về Thiên Chúa của người vô thần[12]. Chúng ta không biết họ trả lời thế nào trước Thiên Chúa về khẳng định vô thần của mình, có thể họ không có lỗi và nếu vậy họ là đối tượng của lời cầu trong kinh nguyện Thánh Thể: “chỉ một mình Chúa biết lòng tin của họ”[13].

            Những người vô thần, những người chưa nhận biết Thiên Chúa, và cả những người nhận biết Thiên Chúa hiện hữu nhưng không sống trong một tôn giáo nào, tất cả những người này đều lãnh nhận mặc khải tự nhiên như vũ trụ vạn vật, lương tâm và bao dấu chỉ tự nhiên trong cuộc sống con người. Có thể họ không đọc ra ý nghĩa của biểu tượng “thực tại thiêng liêng” này, dù những dấu chỉ hay biểu tượng này vẫn hiện diện đối với họ:

·        vũ trụ đẹp tươi là dấu chỉ cho thấy phải có Đấng sáng tạo tuyệt vời;

·        tình yêu giữa con người với nhau như tình yêu nam nữ, tình yêu vợ chồng, tình yêu con cái, tình người, tình bạn,... là dấu chỉ cho thấy có một Đấng yêu họ vô cùng;

·        sự chân thật, trung thành, quảng đại mà họ gặp trong cuộc sống thường ngày cũng là dấu chỉ biểu tượng cho thấy chân, thiện, mỹ của Đấng đã thông ban những sự đó cho con người;

·        lương tâm như tiếng nói nhủ bảo họ ăn ngay ở lành, làm lành lánh dữ... nhưng có thể họ không nhận ra tiếng nói luôn trung thành dõi theo họ là của Thượng Đế, dù trong cuộc sống họ vẫn tùng phục vâng lời.

            Mặc khải tự nhiên vẫn luôn là hiện tại cho những người vô thần, cho những người đã nhận biết Tuyệt Đối nhưng không sống trong một tôn giáo nào, cũng như cho tất cả mọi người kể cả những người sống trong các tôn giáo ngoài kitô và trong Kitô giáo. Bổn phận chúng ta, tất cả mọi người không trừ ai, đều phải đáp trả mặc khải này của Thiên Chúa, nếu không chúng ta sẽ mắc lỗi. Trong cuộc sống thường ngày chúng ta đã thấy bao nhiêu người tự xưng là vô thần đã sống đáp trả những biểu tượng hay dấu chỉ tự nhiên của thực tại vô hình một cách rất chu đáo tốt đẹp; nghĩa là họ đã đang sống đức tin, đang biểu lộ đời sống đức tin bằng chính cuộc sống hằng ngày mà họ không biết, và như vậy họ vẫn được cứu độ.

ii). Chọn lựa căn bản

            Sau đây, chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn về lựa chọn căn bản- một lựa chọn quyết định theo đường lành hay đường dữ, theo sự ác hay sự thiện, theo đường tà hay nẻo chính, theo Thiên Chúa hay ma quỷ.

            Lựa chọn căn bản xảy ra khi một người đến tuổi khôn, có thể phân biệt sự thiện sự ác, có khả năng suy nghĩ và quyết định khi có dịp, và chọn sự thiện vì chính sự thiện chứ không phải vì một lý do nào khác. Không phải tất cả mọi hành vi tự do của con người đều là lựa chọn căn bản. Lựa chọn căn bản chi phối hầu như tất cả những hành vi luân lý của người đó, trừ phi nó được chọn lựa ngược lại.

            Chẳng hạn, một em bé ra khỏi tình trạng trẻ con chưa biết gì bằng hành vi tự do đầu tiên của mình, khi dịp đến em quyết định không nói dối vì đó là điều xấu chứ không phải vì cha mẹ không muốn, cũng không phải vì em sợ bị phạt hoặc sợ sẽ bị phát giác là đã nói dối; nghĩa là em quyết định bằng một chọn lựa đầu tiên trong đời cách tự do hoàn toàn, không làm điều xấu vì nó là điều xấu. Và cả cuộc đời em sẽ được chi phối bởi lựa chọn căn bản đầu tiên này, trừ phi nó được thay đổi bằng một lựa chọn tương tự[14].

            Một em bé sống trong gia đình ngoài kitô giáo hoặc không tôn giáo, em không biết Thiên Chúa cách rõ ràng, nhưng khi làm cuộc lựa chọn căn bản bằng việc làm điều thiện vì đó là điều thiện chứ không vì một lý do nào khác, em đã chọn Thiên Chúa qua hành vi lựa chọn điều thiện này. Giả sử như sau này em trở thành kitô hữu, thì hành vi đức tin đầu tiên sẽ hàm chứa và làm mới lại lựa chọn ban đầu; như vậy có thể nói, lựa chọn luân lý và lựa chọn thần học tự nền tảng là một; cái khác là đi từ mặc nhiên đến minh nhiên.

            Với một em bé sinh trong một gia đình Kitô giáo, em được nghe nói về Thiên Chúa, biết Thiên Chúa. Hành vi tự do đầu tiên của em là sự lựa chọn Thiên Chúa. Hành vi tự do lựa chọn đầu tiên này cũng hàm chứa lựa chọn sự thiện[15].

            Lựa chọn căn bản cũng có thể là lựa chọn điều dữ! Và nếu vậy suốt cuộc đời của người này vẫn chịu ảnh hưởng của quyết định lựa chọn này, trừ phi người đó chọn lựa lại.

Được thể hiện trong cuộc sống

            Bằng hành vi lựa chọn căn bản- lựa chọn điều thiện- một người có thể lãnh nhận ơn công chính hóa, dù người đó sống trong tôn giáo ngoài ki-tô hay trong một gia đình không nhận biết Thiên Chúa. Lựa chọn căn bản là một hành vi tin nhận hoặc từ chối Thiên Chúa được thể hiện qua hành động của mình, một cách dứt khoát.

            Nếu một người chọn sự thiện vì đó là sự thiện, thì ngay cả khi họ chưa tuyên xưng nhận biết Thiên Chúa họ đã biểu lộ đức tin mặc nhiên vào Thiên Chúa rồi. Và nếu họ chết trong tình trạng này, họ được cứu độ. Những quyết định và hành động trong cuộc sống thường ngày là những diễn tả đức tin của mình!

Hành vi bác aí

            Đức Piô XII trong bài diễn văn nói với các “cô đỡ” ngày 29.10.1951, đã nói:

“một hành vi tình yêu có thể đủ cho một người trưởng thành nhận lãnh ân sủng thánh hóa và bù lại sự không có bí tích thanh tẩy”[16].

Nếu vậy, trong đời sống hằng ngày của một người, có bao nhiêu dịp để nhận lãnh hồng ân cứu độ của Thiên Chúa?!

“Dù xây chín đợt phù đồ,
không bằng làm phúc cứu cho một người”.

Những người nghèo luôn có bên chúng ta, những người thiếu thốn đau khổ về tinh thần đầy dẫy trên mặt đất này, như vậy có rất nhiều dịp cho con người thực thi bác ái để nhận lãnh ơn cứu độ!

            Nếu người nào đó làm một hành vi bác ái vì đó là điều tốt điều thiện điều nên làm và phải làm, thì người đó lập lại chọn lựa căn bản mình đã chọn trước. Qua việc sống theo tiếng lương tâm- tiếng Thiên Chúa nói qua lý trí này, người đó biểu lộ đức tin vào Thiên Chúa cho dù họ không nhận biết Ngài cách rõ ràng; và rồi qua hành vi tin vào Thiên Chúa cách minh nhiên hay ngay cả mặc nhiên này, ân sủng thánh hóa có thể được ban cho người đó!

            Trong đời sống gia đình, tương quan giữa cha mẹ, vợ chồng con cái đều phải là tương quan tình yêu; mà tình yêu không bao giờ thiếu những hy sinh triền miên phát xuất từ sự cảm thông, tha thứ, quảng đại chịu đựng trong cuộc sống giao tiếp hằng ngày. Nếu chúng ta sống đời gia đình trong cuộc sống hằng ngày cách ý thức và tự do, sống tình yêu vì tình yêu, thì chúng ta cũng lãnh nhận ân sủng của Thiên Chúa cho dù có thể chúng ta chưa nhận biết Ngài, vì “Thiên Chúa là tình yêu, và ai sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa” (1Yn.4, 8.16).

            Những đức tính tốt của bao người chúng ta gặp trong cuộc sống thường ngày, như sự thật thà, trung thực, thành tín, quảng đại, yêu thương, có thể trở thành những tấm gương, thôi thúc chúng ta sống tốt hơn, thành tín trung thực hơn, quảng đại hơn, yêu thương hơn! Dưới một khía cạnh nào đó, chúng là những biểu tượng, dấu chỉ của thực tại vô hằng mà qua đó Thiên Chúa dùng để ban ơn cho những người không sống trong bất cứ một tôn giáo nào hoặc ngay cả những người chưa nhận biết Thiên Chúa.

            Tóm lại, nếu một người chọn “điều tốt” cho tất cả cuộc sống, hoặc trong cuộc sống hằng ngày họ sống ăn ngay ở lành theo tiếng lương tâm, thì Thiên Chúa vui lòng ban ân sủng công chính hóa cho họ.

Những phong cảnh thiên nhiên, những người tốt việc tốt ta gặp trong cuộc sống hằng ngày như sự trung tín thật thà, lòng quảng đại, tình yêu dành cho nhau trong gia đình hay nơi bạn bè hay nơi nam nữ, đều là biểu tượng, dấu chỉ qua đó Thiên Chúa mặc khải và ban ơn cho con người, ngay cả cho những người chưa nhận biết Ngài cách minh nhiên.

b). Qua việc thờ phượng trong tôn giáo

             Mọi tín hữu của bất cứ tôn giáo nào, ngay cả Kitô giáo, cũng đều phải sống tốt và vâng phục tiếng lương tâm, đáp trả những điều Thượng Đế nói với mình qua các biểu tượng tự nhiên, như tình yêu giữa con người với nhau, tình yêu giữa vợ chồng con cái, lòng chân thành của con người mà chúng ta gặp trong cuộc sống hằng ngày! Tín hữu của bất cứ tôn giáo nào cố tình không đáp trả những “mặc khải qua các biểu tượng tự nhiên” này, e rằng họ cũng không đáp trả mặc khải qua các biểu tượng nơi tôn giáo họ!

Nơi biểu tượng tôn giáo

            Người chưa biết Thiên Chúa hoặc không sống trong một tôn giáo, không có điều mà các tín hữu của mọi tôn giáo có: những điều phải tin nhận được diễn tả qua các biểu tượng[17]. Qua những biểu tín này, tín hữu có thể gặp gỡ Tuyệt Đối; rồi qua các nghi lễ xét như cách diễn tả hữu hình của đức tin, tín hữu dâng lên Thượng Đế những lời ngợi khen cùng tấm lòng tôn kính bái thờ; và qua những dấu chỉ hữu hình này, Thiên Chúa sẵn lòng biểu lộ tình yêu của Ngài đối với họ, hoặc ban cho họ ân sủng thánh hóa, hoặc ban cho họ những ân đặc biệt trong cuộc sống, như ơn được bền đỗ, ơn dễ dàng sống tốt hơn, sẵn sàng đáp trả mọi “mặc khải” qua những biểu tượng tự nhiên và đặc biệt trong cuộc sống hằng ngày.

            Một điều khác cần ý thức khi nói đến các biểu tượng nơi mọi tôn giáo: các biểu tượng- nếu không là biểu tượng thực như đức Yêsu- đều là dấu chỉ của thực tại vô hình, nên không trùng khít với thực tại; nó chỉ là dấu chỉ, nên nó vừa tỏ lộ Thực Tại nhưng lại vừa che dấu thực tại[18]. Nếu coi những biểu tượng này là thực tại, là người ta tôn thờ ngẫu tượng; mệnh lệnh cấm làm hình tượng Thiên Chúa Yavê trong Cựu Ước, là cấm theo nghĩa này!

            Các biểu tượng có tính cách hàm hồ- trừ biểu tượng thực là đức Yêsu Kitô- nên nếu không được hiểu đúng đắn sẽ che dấu thực tại, tuy vậy người ta cũng không thể bỏ biểu tượng vì nếu vậy thực tại không được diễn tả và không thể được hiểu; do vậy người ta đã dùng cách phủ định, để cố gắng diễn tả và lại gần thực tại hơn[19]; hiểu trong nghĩa này, một cao tăng nói: “ngón tay chỉ, hãy nhìn điều ngón tay chỉ chứ đừng nhìn ngón tay”, một danh sĩ đạo Lão dạy “bè để qua sông, qua sông hãy bỏ bè”.

            Thực Tại Tuyệt Đối có nhiều tên gọi như Trời, Thiên Chúa, Thượng Đế, Đấng Tối Cao, Tuyệt Đối, v.v., nhưng mỗi tên gọi chỉ có thể diễn tả một khía cạnh nào đó của thực tại. Những tên gọi này cũng được coi như những biểu tượng của Tuyệt Đối!

            Các biểu tượng cũng không có giá trị như nhau; có biểu tượng thích hợp hơn để diễn tả thực tại thiêng liêng nhưng cũng có những biểu tượng diễn tả kém, có biểu tượng thích hợp cho nhóm người này nhưng không thích hợp cho nhóm khác, có biểu tượng thích hợp cho thời này nhưng không thích hợp cho thời khác[20]. Đó là lý do tại sao có hiện tượng biểu tượng mai một với thời gian, và cũng có những biểu tượng mới xuất hiện[21].

            Với những lưu ý trên, chúng ta đi vào những biểu tượng nơi các tôn giáo ngoài kitô. Chúng ta chỉ đưa vài nét đại cương, vì để làm điều này cách thích đáng, chúng ta phải nghiên cứu kỹ lưỡng và thấu đáo hơn.

Đạo Phật như một ví dụ

            Với tín đồ đạo Phật, đức Phật là một biểu tượng, và hơn nữa là một biểu tượng lịch sử[22]. Đức Phật là biểu tượng người tu hành đắc đạo, giác ngộ, đã đạt cõi phúc. Đức Phật không nhận mình là Tuyệt Đối, và tín đồ Phật giáo cũng không tôn thờ Đức Phật như Tuyệt Đối. Đức Phật nói: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành; hết thảy mọi loài miễn là có cảm giác hay hiểu biết, đều sẽ thành Phật trong một mai sau”[23].

            Vì có những học trò lầm lẫn coi Đức Phật cũng như tượng Phật là tuyệt đối, nên một vị tổ sư trong đạo, muốn phá trừ thành kiến chật hẹp của học trò, đã chẻ tượng Phật ra cho vào lửa làm củi[24].

            Với tín đồ Phật giáo, cây bồ đề cũng là biểu tượng của sự giác ngộ. Vì vậy Phật tử không cầu xin ân huệ vật chất hay tinh thần khi đảnh lễ Phật mà chỉ bày tỏ lòng tôn kính ngưỡng mộ lý tưởng siêu việt mà bức tượng tiêu biểu. Phật tử cũng đảnh lễ cây bồ đề, không phải để tỏ lòng tôn sùng thờ lậy cái cây, mà xem đó là tượng trưng của sự giác ngộ. Dầu có nhiều nghi thức lễ bái trong các buổi lễ, tín đồ Phật giáo không tôn sùng Đức Phật như một thần linh[25].

            Khi đứng trước tượng Phật hay dưới gốc bồ đề, phật tử nhớ lại vị thầy đi trước đã được giải thoát, đã giác ngộ, đã đạt hạnh phúc; phật tử cũng nhớ lại con đường đức Phật đã đi, cũng như khả thể thành phật của mỗi người; và có thể nhờ đó phật tử ước muốn sống tốt hơn, muốn sống từ bi hỷ xả hơn, muốn thực thi hành vi bác ái hơn; nghĩa là, muốn bắt chước Đức Phật và mong ước được giải thoát, được giác ngộ, được hạnh phúc.

            Khi hành lễ, bái lạy, xá hương, phật tử cũng có tâm tình được nên giống Phật, có tâm tình ao ước giải thoát và được hạnh phúc miên trường.

            Trong đạo Phật còn có những biểu tượng khác nữa, nhưng hiện tại với giới hạn của bài cũng như với khả năng, không tiện đề cập tới. Những điều được nói ở đây về Đức Phật xét như biểu tượng, qua đó những người Phật giáo có thể gặp gỡ Thực tại Tuyệt Đối, cũng đúng cho các biểu tượng tương tự nơi các tôn giáo ngoài kitô khác.

Vươn tới Tuyệt Đối

            Qua những biểu tượng trong các tôn giáo ngoài kitô, tín hữu vượt qua những dấu chỉ khả giác để vươn tới thực tại vô hình, và họ có thể được gặp gỡ thực tại vô hình; qua ngôn ngữ biểu tượng này họ hướng lòng lên những sự thuộc về thế giới khác, về Tuyệt Đối; họ muốn sống tốt hơn, muốn trở thành con người toàn diện hơn! Trước những điều này chúng ta phải chân nhận Thiên Chúa đã và đang hoạt động, đã và đang ban ân sủng qua các biểu tượng, vì tất cả điều tốt đều đến từ Thiên Chúa[26].

            Kierkegaard cho rằng “lời cầu nguyện cũng có thể là không chân thực khi cầu nguyện với Thiên Chúa chân thực, nhưng người ta cũng có thể cầu nguyện trong chân lý mặc dù người ta dâng lời cầu nguyện trước một “ngẫu tượng””[27]. Một điều chúng ta nên biết rõ, nếu một biểu tượng không là biểu tượng thực, mà người ta coi biểu tượng đó là Thực Tại, biểu tượng đó trở thành ngẫu tượng. Điều này đúng cả cho những biểu tượng trong Kitô giáo; chính vì vậy Yavê Thiên Chúa ra lệnh cho con dân Israel không được làm hình tượng Yavê để thờ (Tl.4, 15-20). Nếu một người ngoại, họ nhìn các biểu tượng như một biểu tượng, nghĩa là như dấu chỉ của thực tại vô hình, thì biểu tượng đó không là ngẫu tượng đối với người ngoại này. Nếu hiểu như vậy chúng ta có thể đồng ý với Raymond Panikkar và Paradkar cho rằng “người Ấn giáo được cứu bởi Đức Kitô nhưng qua các bí tích của Ấn giáo[28].

            Tóm lại, niềm tin của những người sống trong các tôn giáo ngoài kitô được diễn tả qua các biểu tượng nơi các tôn giáo của họ; khi họ nghĩ hay nhìn tới những biểu tượng này, hoặc khi họ đáp trả bằng niềm tin được biểu lộ qua những hành vi tôn giáo như cúng tế bái lạy, họ có thể nhận lãnh ân sủng cứu độ của Thiên Chúa, cũng như họ có thể được gặp gỡ Thiên Chúa như Thực Tại của biểu tượng tôn giáo họ sống, Đấng mà họ không gọi cùng một tên với kitô hữu.

B. BÍ TÍCH CÔNG GIÁO VÀ BIỂU TƯỢNG TÔN GIÁO KHÔNG KITÔ

            Bí tích là một từ ngữ đa nghĩa,

·        nó dùng để chỉ bảy “dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng” của Giáo Hội Công Giáo (nghĩa là bảy bí tích theo nghĩa vẫn được dùng);

·        nó cũng được dùng với nghĩa dấu chỉ của “thực tại vô hình” như “Đức Kitô là bí tích nguồn” và “Giáo Hội là bí tích nguyên thủy”[29];

·        nó cũng được dùng, đặc biệt ở đây, để chỉ những biểu tượng, tức là dấu chỉ của thực tại vô hình, trong các tôn giáo ngoài kitô.

            Một số tác giả, chẳng hạn như Karl Rahner, đã coi các bí tích Kitô giáo là những biểu tượng thực[30]; đức Kitô là biểu tượng thực uyên nguyên, vì Ngài vừa là biểu tượng vừa là thực tại của biểu tượng. Như vậy, biểu tượng được gọi là bí tích theo nghĩa rộng; và chúng ta có thể gọi các biểu tượng ngoài kitô là bí tích của các tôn giáo ngoài kitô, và bí tích của Giáo Hội Công Giáo là biểu tượng thực.

            Để thấy tương quan dị đồng giữa bí tích Công Giáo và bí tích các tôn giáo ngoài kitô, chúng ta sẽ xét những đặc điểm của bí tích Công giáo và sau đó của các bí tích ngoài kitô giáo.

a). Đặc tính của bí tích Công Giáo

            K. Rahner định nghĩa bí tích là lời của Đức Kitô đặt nơi miệng Giáo Hội, và Lời này sinh ân sủng do sự[31]. Quan niệm “bí tích là hữu hiệu” này bắt nguồn từ những suy tư về Lời Chúa của K. Rahner. Ngài cho rằng:

·        Lời Chúa được ký thác cho Giáo Hội bảo tồn và lưu truyền;

bí tích cũng là lời, một lời hữu hiệu[32]. Khi nói bí tích là lời hữu hiệu tác giả đã cho thấy dấu chỉ và biểu tượng cũng thuộc về lời.

i). Sinh ân sủng do sự (ex opere operato)

            Đức Yêsu nói: “Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin cùng chịu Thanh Tẩy thì sẽ được cứu, còn ai không tin sẽ bị luận tội” (Mc.16, 15-16). Đây là mệnh lệnh của đức Yêsu sau khi Ngài đã phục sinh! Nhưng ngay khi đức Yêsu bắt đầu rao giảng, Ngài đã dạy các môn đệ làm thanh tẩy cho dân chúng (Yn.3, 22.26). Vâng lệnh đức Yêsu Phục Sinh, các tông đồ cũng rao giảng và ban phép thánh tẩy như trường hợp cho hoạn quan (Cv.8, 38tt), cho gia đình Cornêliô (Cv.10, 47-48).

            Chúng ta được thanh tẩy trong đức Yêsu Kitô, chính trong cái chết của Ngài mà ta được thánh tẩy. Như vậy nhờ thánh tẩy, chúng ta đã được mai táng làm một với Đức Kitô trong sự chết, ngõ hầu như Đức Kitô nhờ bởi vinh quang Cha, đã được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới (Rm.6, 3-4).

            Thanh tẩy là một bí tích, nghĩa là một dấu chỉ ban ân thánh do việc cử hành dấu chỉ này. Bí tích có hiệu lực do sự (ex epere eperato) vì:

·        Thiên Chúa là nguyên nhân chính, nhờ cuộc khổ nạn của Chúa Kitô là nguyên nhân ban công nghiệp và nhờ đức tin của Giáo Hội[33];

·        Đức Yêsu đã thiết lập những dấu chỉ này, và Ngài muốn những dấu chỉ này ban ân thánh khi được cử hành theo ý và nhân danh Ngài.

            Bí tích nếu chỉ là một dấu chỉ của thực tại thiêng liêng, thì cũng có giá trị như những biểu tượng khác, hoặc trong Kitô giáo hoặc trong các tôn giáo ngoài kitô. Điểm khác biệt giữa bí tích Công Giáo và các biểu tượng khác trong Giáo Hội Công Giáo và trong các tôn giáo ngoài kitô, là các bí tích Công giáo có hiệu quả do sự (ex opere operato).

ii). Đức Yêsu thiết lập

            Cái làm cho bí tích Công Giáo có hiệu quả do sự, là chúng được đức Yêsu Kitô thiết lập, và được thiết lập để ban ân thánh cho con người. Khi Đức Kitô cử hành những dấu chỉ này, chẳng hạn như Ngài hòa nước bọt vào bùn và xức cho người mù, thì những dấu chỉ hành vi này ban cho người mù được sáng và được ơn công chính.

Giáo Hội đại diện Chúa Yêsu

            Đức Kitô thiết lập Giáo Hội để tiếp tục công việc cứu thế của Ngài nơi trần gian, nên khi Giáo Hội cử hành các dấu chỉ này, cũng là Đức Kitô cử hành, và như vậy các dấu chỉ sinh hiệu quả do chính việc cử hành, nghĩa là “do sự”.

            Suy luận tương tự, để các bí tích sinh hiệu quả do sự, các bí tích phải được thừa tác viên cử hành đại diện Giáo Hội nhân danh Đức Kitô; và xét dưới khía cạnh chủ thể lãnh nhận bí tích, chủ thể này phải hội đủ yếu tố mà nếu đức Kitô làm, đức Kitô đòi hỏi để Ngài làm những dấu chỉ này; hiểu như vậy, chủ thể lãnh nhận phải hội đủ yếu tố Giáo Hội quy định xét như đại diện Đức Kitô tại trần gian.

Ý hướng thừa tác viên

            Nơi thừa tác viên cử hành bí tích,

họ phải là người đại diện Giáo Hội của Đức Kitô,

và do đó phải làm theo ý Đức Kitô nơi Giáo Hội,

cụ thể thi hành điều Giáo Hội xét như đại diện của Ngài nơi trần thế dạy phải làm.

            Nơi chủ thể lãnh nhận bí tích, thụ nhân phải có đức tin, và hội đủ những điều kiện Đức Kitô đòi hỏi qua Giáo Hội[34] đại diện Ngài.

b). Biểu tượng ban ân sủng nơi tôn giáo không kitô

            Như đã nói trên, nét đặc trưng của bí tích kitô giáo là có hiệu quả do sự (ex opere operato), thế còn bí tích nơi các tôn giáo ngoài kitô? Khi nào hay do đâu các bí tích, biểu tượng nơi các tôn giáo ngoài kitô ban ân sủng và đặc biệt ân sủng công chính hóa cho những người sống trong tôn giáo ngoài kitô đó?

            Để giải quyết vấn đề này, đầu tiên sẽ xét ân sủng công chính được ban cho kitô hữu ngoài bí tích, rồi tới những người dự tòng, và sau đó những tín hữu nơi các tôn giáo ngoài kitô. Chính nhờ ánh sáng Kitô giáo mà chúng ta có thể giải đáp câu hỏi về đặc tính của bí tích các tôn giáo ngoài kitô.

i). Ơn công chính ngoài bí tích cho kitô hữu

            Sách giáo lý của Giáo Hội Công Giáo dạy, ta có thể được lại ân sủng thánh hóa nhờ ăn năn tội cách trọn[35].

            Các thần học gia trường phái Thomas cho rằng chỉ có một con đường để được ơn công chính hóa, và coi bí tích như một yếu tố không thể thiếu trong tiến trình lãnh ơn công chính hóa này[36]. Còn Duns Scott cho rằng có hai con đường cứu độ khác nhau, đường này độc lập với đường kia, một là ngoài bí tích như việc thống hối ăn năn cách trọn, và một khác là bằng bí tích phát sinh ơn công chính do sự (ex opere operato), nhưng không phải con đường thứ nhất làm cho việc lãnh nhận bí tích thành dư thừa vì việc này dựa vào quyền Thiên Chúa theo đó ý hướng thú tội là yếu tố không thể miễn trừ của tất cả hối nhân đích thực[37]. Theo Duns Scott việc có hai con đường công chính hóa cho tội nhân, là một dấu chỉ cho thấy lòng nhân từ của Thiên Chúa, hơn là chỉ có một con đường[38]. Cũng theo ông, con đường bí tích là con đường dễ hơn con đường kia[39].

            Với K. Rahner không có hai con đường cứu độ nhưng chỉ có một con đường cứu độ và như vậy không thể đặt vấn đề nên theo con đường này hay theo con đường kia. Theo ông, có hai thời điểm chứ không phải hai đường của cùng một biến cố cứu độ[40]: tương tự như “Lời duy nhất có tính cứu độ và hữu hiệu của Thiên Chúa” có một lịch sử nhưng có những thời điểm khác nhau, mỗi thời điểm có giá trị tương ứng với toàn thể và thời điểm sau không làm thời điểm trước mất giá trị, thì cũng vậy biến cố cứu độ nơi mỗi cá nhân [41].

Do nhân (ex opere operantis)

            Để lãnh nhận bí tích, để bí tích có thể sinh hiệu quả do sự cho thụ nhân, chủ thể lãnh nhận phải hội đủ những điều kiện do Giáo Hội đại diện Chúa Kitô quy định. Chẳng hạn nơi bí tích hòa giải, để có thể lãnh nhận ân sủng công chính hóa sau khi phạm tội, thụ nhân phải có lòng thống hối; nếu thiếu lòng thống hối này, bí tích không sinh hiệu quả, nghĩa là không ban ơn công chính hóa cho họ. Như vậy ngay nơi bí tích, yếu tố chủ thể lãnh nhận cũng rất quan trọng. “Thiên Chúa đã sinh ta chúng ta không hỏi ý kiến chúng ta nhưng Ngài không thể cứu độ chúng ta nếu chúng ta không đồng ý”; chính yếu tố chủ thể (ex opere operantis) làm cho chủ thể được ân sủng công chính hóa[42].

            Khi một kitô hữu lãnh nhận ân sủng công chính hóa trước khi lãnh nhận bí tích, không hàm chứa rằng việc lãnh nhận bí tích là dư thừa hoặc không cần thiết, bởi vì các bí tích là biểu lộ của đức tin[43]. Hành vi thống hối đã là tác động của ân sủng, và nó không chỉ thuần túy là thái độ nội tâm nhưng còn được biểu lộ ra bên ngoài qua việc quỳ gối cầu nguyện, nghĩa là, nó đã được diễn tả qua hành động[44]. Việc lãnh nhận ân sủng công chính ngoài bí tích, cũng vẫn là lãnh nhận ân sủng này trong Giáo Hội; và nếu xét chủ thể lãnh nhận như thành phần của Giáo Hội thì hậu quả cũng được biểu lộ nơi Giáo Hội, cụ thể nơi thụ nhân lãnh nhận ân sủng, và cao điểm là lãnh nhận bí tích[45].

            Các bí tích ban ân sủng “do sự”; còn trường hợp ân sủng được ban “do nhân”, là ân sủng được ban nhờ thái độ của thụ nhân; có thái độ này, là nhờ các biểu tượng ngoài bí tích; và thái độ này cũng được diễn tả qua những hành vi biểu tượng như cầu nguyện, làm việc bác ái.

            Do sự khác do nhân ở chỗ, cũng tương tự như trước khi đức Yêsu Kitô xuất hiện, con người cũng được ân sủng thánh hóa, cũng được cứu độ nhưng con người vẫn phải chờ biến cố đức Yêsu dù họ không biết, và chỉ với biến cố đức Yêsu Kitô con người mới biết rõ mình đã được cứu độ và được cứu độ nhờ đức Yêsu Kitô; con người có thể được ơn công chính hóa trước khi lãnh nhận bí tích nhưng con người vẫn chưa biết rõ mình được điều này, và chỉ khi lãnh nhận bí tích, người ta mới biết rõ mình đã được công chính hóa[46].

            Ân sủng của Thiên Chúa đã hoạt động nơi con người khi lãnh nhận bí tích; và tùy thuộc thái độ của thụ nhân, ân sủng còn được biểu lộ cách hữu hình ra bên ngoài, và người lãnh nhận bí tích có sự chắc chắn chủ quan lẫn khách quan về ân sủng mình nhận được. Còn khi người ta nhận lãnh ơn công chính ngoài bí tích[47], ân sủng của Thiên Chúa cũng hoạt động nơi người ấy, giúp người ấy chuẩn bị lãnh nhận ân sủng công chính hóa, và chính Thiên Chúa ban ân sủng công chính hóa khi Ngài thấy được, và rồi ân sủng này cũng được biểu lộ ra qua những dấu chỉ biểu tượng bên ngoài. Người nhận lãnh ân sủng thánh hóa ngoài bí tích, có thể có sự chắc chắn chủ quan nhưng sự chắc chắn này có thể không hoàn toàn.

Bởi lòng nhân hậu của Thiên Chúa (ex divina decreta eterna)

            Một người lãnh nhận ân sủng công chính ngoài bí tích hay đúng hơn là trước bí tích, là do lòng thương xót nhân từ của Thiên Chúa và nhờ thái độ thống hối được biểu lộ qua việc đọc kinh cầu nguyện, công tác bác ái. Chúng ta dùng từ ngữ “do nhân” (ex opere operantis) để chỉ đặc tính trường hợp được ân sủng công chính ngoài hoặc trước bí tích.

Dự tòng

            Người dự tòng có thể đã được ân sủng công chính hóa trước khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội do thái độ của họ (ex opere operantis), và như vậy nếu họ chết trước khi lãnh nhận bí tích rửa tội, họ được cứu độ. Các nhà thần học và ngay cả huấn quyền giải thích việc lãnh nhận ân sủng công chính hóa trưóc khi lãnh bí tích rửa tội bằng phép rửa bởi Thánh Thần, bằng lòng ao ước lãnh bí tích (votum sacramenti), bằng hành vi bác ái.

Trẻ em

            Trẻ con chết trước khi lãnh nhận bí tích rửa tội, dù cho cha mẹ là kitô hữu hay lương dân, nếu còn mắc tội tổ tông các em cũng không được hưởng tôn nhan Chúa, nhưng chắc chắn “Thiên Chúa không thể nào để cho bao nhiêu trẻ con phải hư mất đời đời”[48]. Như vậy phải chăng Thiên Chúa nhân từ tha thứ tội tổ tông cho các em vì đức tin của Giáo Hội?

            Vấn đề này liên hệ đến quan niệm về tội tổ tông, về tiến trình thành người của thai nhi, về lòng nhân từ của Thiên Chúa. Những trẻ chết khi Hêrôđê muốn giết hài nhi Yêsu, được gọi là các thánh anh hài; các em nhỏ được rửa tội trong gia đình Công giáo nhờ đức tin của cha mẹ, được lên thiên đàng; còn các em nhỏ khác thì sao? đức tin của Giáo Hội có tác động đến các em không? Thiên Chúa có thua lòng nhân từ của chúng ta không, nếu chỉ là người mà chúng ta còn nghĩ rằng các em đó phải được hưởng kiến Thiên Chúa?

            Trong quan niệm nhân học cho rằng ơn gọi con người là được sống hạnh phúc với Thiên Chúa, ngay cả trong tình trạng sa ngã hiện tại? Và nếu Giáo Hội khẳng định những người chưa rửa tội có thể được cứu độ khi họ sống theo lương tâm ăn ở ngay lành, còn các em bé và các thai nhi- các em chưa thể biểu lộ đức tin của mình qua hành động, đó không là lỗi tại các em- như vậy chúng ta có lý để cho rằng các em có thể được cứu độ. Các em được cứu độ vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng nhân từ và công bằng, vì Đức Kitô đã chết cho tất cả mọi người, kể cả các thai nhi trong bụng mẹ. Nếu quả các em được cứu độ, các em được cứu độ không cần nhận lãnh bí tích và cũng không cần qua biểu tượng nữa, dù là biểu tượng tự nhiên.

ii). Người Do Thái giáo thời Cựu Ước và hiện tại

            Kitô hữu tin rằng những tín hữu Do Thái giáo thời Cựu Ước được cứu độ nhờ lòng tin vào Thiên Chúa (Kn.15, 6), nhờ việc thực thi lề luật như cách thể hiện đức tin vào Thiên Chúa, nhờ phép cắt bì như bí tích xóa tội nguyên tổ[49] cũng như nhờ các bí tích khác[50], và đặc biệt vẫn nhờ đức Yêsu Kitô và trong Giáo Hội.

Nhờ nghi lễ biểu tượng

            Cũng như người Công giáo được lại ân sủng thánh hóa sau phạm tội nhờ lãnh bí tích hòa giải hoặc nhờ lòng thống hối thật, tín hữu Do Thái giáo sau khi cắt bì mà phạm tội lãnh nhận ân sủng thánh hóa nhờ nghi lễ xá tội trong ngày lễ xá tội hằng năm (Lv.16, 33) hoặc nhờ các nghi lễ hay qua các biểu tượng khác.

Qua biến cố biểu tượng

            Thiên Chúa cho dân Israel từ lưu đày trở về, đó là biểu hiệu Thiên Chúa đã tha thứ tội lỗi vì dân đã thật tình sám hối (Bar.1, 15- 3, 8).

            Tiên tri Natan và câu chuyện dụ ngôn của tiên tri là lời biểu tượng để vua David nhận biết lỗi lầm và thống hối; và chính lòng thống hối đã làm Thiên Chúa tha thứ tội lỗi của David (2Sam.11, 13).

            Những lời của tiên tri Natan và biến cố lưu đày của dân Israel, cho thấy Thiên Chúa đã ban ân sủng qua lời biểu tượng hoặc qua biến cố biểu tượng. Qua những biểu tượng này, David nhận ra lỗi lầm của mình để thống hối, và biết Thiên Chúa đã tha tội cho mình qua lời tiên tri; Qua biến cố lưu đày, Thiên Chúa đã giúp dân nhận biết lỗi lầm, và như vậy biến cố lưu đày trở thành phương tiện giúp dân thống hối và đón nhận ân sủng được ban; biến cố được trở về quê hương trở thành biểu tượng cho thấy Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho dân.

            Những biến cố, biểu tượng, và ân sủng, được ban cho dân Israel; và cũng tương tự vậy được ban cho người ngoài Do thái giáo, và rồi cho những người sống trong tôn giáo ngoài kitô ngày nay. Những biểu tượng này tuy không có tính ban ân sủng do sự (ex opere operato), nhưng cũng là phương tiện để Thiên Chúa ban ân sủng cho những tâm hồn xứng đáng (ex opere operantis).

iii). Người sống trong tôn giáo ngoài kitô
Qua biểu tượng

            Tương tự như kitô hữu nhận lãnh ân sủng công chính hóa ngoài bí tích, và tín hữu Do thái giáo nhận lãnh ân sủng công chính hóa trong nhiệm cục cứu độ tiền ki-tô giáo, ân sủng Thiên Chúa tác động nơi những người sống trong các tôn giáo ngoài kitô qua các biểu tượng nơi các tôn giáo họ sống hoặc qua những biểu tượng tự nhiên, để họ có tâm tình thống hối và thái độ xứng hợp, hầu Thiên Chúa ban ân sủng công chính hóa cho họ khi Ngài muốn.

Do chủ thể (ex opere operantis)

            Khác với bí tích kitô giáo, vì là dấu chỉ được đức Yêsu Kitô thiết lập và Ngài muốn những biểu tượng này ban ân sủng do việc cử hành (ex opere operato), các biểu tượng nơi các tôn giáo ngoài kitô là phương tiện ban ân sủng cho những người sống trong các tôn giáo này tùy thuộc thái độ của họ (ex opere operantis).

Do ý định Thiên Chúa (ex divina decreta eterna)

            Các biểu tượng của các tôn giáo ngoài kitô ban ân sủng cho những người sống trong các tôn giáo này tùy ở thái độ của họ (ex opere operantis), tùy Thiên Chúa theo ý muốn và dự định của Ngài (ex divina decreta eterna).

            Những người lãnh nhận ơn công chính hóa ngoài bí tích kitô giáo, có thể có sự xác tín chủ quan về ân sủng nhận được; và sự xác tín khách quan có thể có khi ân sủng công chính hóa được biểu lộ ra bên ngoài qua các biểu tượng, chẳng hạn hành vi bác ái, đời sống lương thiện, yêu mến tha nhân đồng loại, những cảm nghiệm về Tuyệt Đối.

            Trong nhãn quan kitô và nhân bản không bị lệch lạc, nhận lãnh ân sủng công chính hóa qua bí tích kitô giáo là con đường đơn sơ và dễ dàng nhất, và thụ nhân có sự xác tín chủ quan lẫn khách quan về ân sủng mình được nhận.

C. TRUYỀN GIÁO

            Đối với kitô hữu, truyền giáo là loan báo cho muôn dân biết Thiên Chúa yêu thương con người, và Ngài muốn cho tất cả được thông dự sự sống vĩnh cửu của Ngài.

            Thiên Chúa yêu thương con người đến độ ban Con Một của Ngài cho con người, tức là đức Yêsu Kitô (Yn.3, 16). Với biến cố Yêsu Kitô, tất cả được biến đổi. Con người, nhờ đức Yêsu Kitô, đã thấy rõ ý nghĩa cuộc sống của mình, biết rằng mình được Thiên Chúa yêu thương, biết rằng mình sẽ được cứu độ, sẽ được thông phần hạnh phúc vĩnh cửu của Thiên Chúa nếu mình tin vào đức Yêsu Kitô (Yn.3, 16).

            Truyền giáo là loan báo tin mừmg đức Yêsu Kitô. Đức Yêsu Kitô chính là Tin Mừng cho tất cả nhân loại; không có Ngài, không có ơn cứu độ; và có Ngài tất cả được đổi mới, tất cả được hạnh phúc, tất cả được tham dự sự sống Thiên Chúa.

i). Biểu lộ công giáo tính

            Truyền giáo có thực sự cần thiết không khi các tôn giáo ngoài kitô cũng có những biểu tượng, qua đó Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ cho những người thuộc tôn giáo đó?

            Câu trả lời thật đơn sơ rõ ràng: dù các tôn giáo ngoài kitô có là phương tiện cứu độ cho những người sống trong đó, dù các tôn giáo ngoài kitô có những biểu tượng qua đó Thiên Chúa vẫn dùng để ban ân sủng cứu độ cho họ, thì việc truyền giáo “loan báo đức Yêsu cho những người sống trong các tôn giáo ngoài kitô” là một chuyện rất cần thiết và không thể miễn trừ. Sau đây là những lý do buộc các kitô hữu phải truyền giáo.

Tin Mừng đòi chia sẻ

            Kitô hữu là người có niềm vui lớn lao vô cùng: “Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người vì yêu thương chúng ta, Ngài đã chết và sống lại để chúng ta cũng được sống lại với Ngài, Ngài muốn cho con người được thông chia sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa”. Khi một người có niềm vui, họ thường đem chia sẻ với những người xung quanh, với những người thân, với những người họ yêu mến. Như vậy nếu một kitô hữu xác tín niềm tin của mình, chắc chắn họ phải chia sẻ Tin Mừng này cho những người họ yêu, cho những người thân, cho những người xung quanh họ. Nếu họ không chia sẻ Tin này, thì e rằng đây không phải là một Tin Mừng thật, hoặc họ không có tình yêu đối với những người xung quanh và với những người thân, và nếu vậy họ không giống Thiên Chúa là Đấng yêu thương mọi người và muốn chia sẻ niềm vui, sự sống của Ngài với con người.

Mệnh lệnh của Chúa Yêsu phục sinh

            Đức Yêsu Kitô sau phục sinh, đã truyền cho các môn đệ mệnh lệnh “các con hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin cùng chịu thanh tẩy sẽ được cứu, còn ai không tin sẽ bị luận tội” (Mc.16, 15-16//).

            Thánh Thần của đức Yêsu Phục Sinh cũng đã tách riêng Phaolô và Barnaba để sai các ngài đi rao giảng tin mừng đức Yêsu cho người Do Thái, và sau đó cho dân ngoại (Cv.13, 2.46). Phaolô đã xác tín ơn gọi rao giảng Tin Mừng của Ngài: “khốn cho tôi, nếu tôn không rao giảng Tin Mừng “ (1Cor.9, 16).

            Mệnh lệnh đi rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc, làm thành tính công giáo của Giáo Hội: “Vậy các con hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân, thanh tẩy chúng nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, dạy chúng tuân giữ hết mọi điều thầy đã truyền cho các con” (Mt.28,18-19). Giáo Hội đã nhận lãnh sứ mạng như đức Yêsu nhận lãnh từ Cha: “như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Yn.20, 21).

            Đức Yêsu Kitô là Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người (1Tm.2, 5), Ngài là Lời Thiên Chúa nhập thể làm người (Yn.1, 14), nên Ngài là bí tích nguồn ban ân sủng cho con người (Yn.1, 18). Giáo Hội, được Thánh Thần đức Yêsu Kitô hướng dẫn, là bí tích phổ quát ban ơn cứu độ cho con người[51], cho tất cả mọi người thuộc mọi quốc gia ngôn ngữ. Nếu Giáo Hội không truyền giáo, Giáo Hội không còn tư cách đại diện Chúa Kitô nữa, không còn là bí tích phổ quát nữa, và như vậy Giáo Hội không còn là Giáo Hội nữa.

Vì là con đường tuyệt nhất

            Chúng ta vẫn phải truyền giáo, bởi vì

·        chính trong đức Yêsu Kitô và nhờ đức Yêsu Kitô mà các tôn giáo ngoài kitô trở thành phương tiện cứu độ;

·        chính trong Giáo Hội- ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ- mà ân sủng được ban cho những người sống trong các tôn giáo ngoài kitô, hay những người không theo một tôn giáo nào, hoặc ngay cả những người vô tình không tin nhận Thiên Chúa, dù rằng qua các biểu tượng trong tôn giáo ngoài kitô hoặc qua các biểu tượng tự nhiên.

·        Hơn nữa, chúng ta cũng đã thấy ở trên, các tôn giáo ngoài kitô vẫn có những sai lầm vì có những yếu tố thuần túy con người, vì các tôn giáo ngoài kitô không được Thánh Thần bảo đảm việc lưu truyền kinh nghiệm với Tuyệt Đối, và vì các biểu tượng tôn giáo ngoài kitô vẫn có nhiều nét hàm hồ không phản ánh tinh ròng Thực Tại Vô Hình, và đôi khi còn làm cho con người hiểu sai lệch về Tuyệt Đối.

ii). Hội Nhập Văn Hóa

            Truyền giáo không là truyền bá văn hóa Do thái hay Hy lạp hay tây phương, nhưng là rao giảng tin mừng đức Yêsu Phục Sinh.

            Giáo Hội không truyền bá một ý thức hệ với những giải thích về vũ trụ, Thiên Chúa và con người, nhưng rao giảng tin mừng đức Yêsu Kitô; như vậy Giáo Hội thích hợp với mọi người và với mọi nền văn hóa của mọi dân tộc và mọi thời đại.

            Giáo Hội là Công Giáo, nên Giáo Hội hòa hợp với mọi dị biệt của những nền văn hóa khác nhau, nên Giáo Hội phải tìm hiểu cách suy nghĩ, diễn tả của từng dân tộc, của từng nền văn hóa, để loan báo tin mừng đức Yêsu Kitô một cách thích đáng, và để mọi người dễ tin nhận hơn.

            Hội nhập văn hóa là tìm hiểu cách suy nghĩ và diễn tả của từng dân tộc, để trình bày tin mừng đức Yêsu Kitô theo cách thức suy nghĩ và diễn tả của dân tộc đó. Nếu chúng ta không hội nhập văn hóa, không trình bày Tin Mừng theo văn hóa của dân tộc được rao giảng Tin Mừng, sẽ làm người ta dễ hiểu lầm Tin Mừng, và hậu qủa là đa số từ chối Tin Mừng đức Yêsu Kitô.

            Đặc biệt với những dân tộc châu Á, có nền văn hóa rất khác với những nước châu Âu, nếu Tin Mừng không được rao giảng bằng ngôn ngữ văn hóa các nước châu Á, e rằng không có bao người tiếp nhận Tin Mừng. Chẳng hạn việc “thờ cúng tổ tiên”, nếu những người Công Giáo làm cho người Việt Nam nghĩ rằng theo đạo là bất hiếu, phải bỏ ông bà, thì thường họ không chấp nhận theo đạo; thực sự người Công Giáo tôn kính ông bà cách khác, chúng ta không bất hiếu, chúng ta vẫn nhớ cầu nguyện cho ông bà, tổ tiên, cha mẹ chúng ta trong những giờ kinh nguyện; tuy vậy, chúng ta phải để cho người Việt Nam tôn kính ông bà theo kiểu của họ, thì tin mừng đức Yêsu Kitô mới dễ được nhiều người chấp nhận; chúng ta chỉ ngăn cản khi những hành vi tôn kính này đi ngược lại đức tin mà thôi. Người Công Giáo Việt Nam nói về lòng tôn kính ông bà tổ tiên theo cách thức, theo nền văn hóa của người Việt Nam; và điều chúng ta nói về lòng tôn kính tổ tiên cũng đúng cho những vấn đề khác; đó là công tác hội nhập văn hóa của Giáo Hội khi thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng đức Yêsu Kitô cho mọi dân tộc.

iii). Đối thoại tôn giáo

            Giáo hội khẳng định lập trường với công đồng Vatican II qua tuyên ngôn về các tôn giáo ngoài kitô: “Giáo Hội Công Giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo ngoài kitô. Với lòng kính trọng chân thành, Giáo Hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết kia, tuy rằng có nhiều điểm khác với chủ trương mà Giáo Hội duy trì, nhưng cũng thường đem lại ánh sáng của Chân Lý, Chân Lý chiếu soi cho hết mọi người; vì thế, Giáo Hội khuyến khích con cái mình nhìn nhận, duy trì và cổ động cho những thiện ích thiêng liêng cũng như luân lý và những giá trị xã hội văn hóa của các tín đồ thuộc các tôn giáo khác, bằng con đường đối thoại hợp tác cách thận trọng và bác ái với tín đồ các tôn giáo ấy mà vẫn là chứng tá của đức tin và đời sống kitô giáo”[52].

            Như vậy chúng ta thấy, Giáo Hội chấp nhận những gì chân thật và tốt lành nơi các tôn giáo ngoài kitô, và cổ võ việc đối thoại. Việc đối thoại hàm chứa niềm tin rằng các tôn giáo ngoài kitô có những chân lý, có những điều tốt lành. Vì nếu Giáo Hội nhận rõ các tôn giáo ngoài kitô là phương tiện của ma quỷ, hoặc là công trình của con người xét như một thế lực chống lại Thiên Chúa như một số người trong anh em Tin Lành chủ trương, thì chắc Giáo Hội đã thẳng thắn bài bác và không bao giờ khuyến khích con cái mình đối thoại cả. Việc đối thoại với các tôn giáo ngoài kitô hàm chứa phần nào niềm tin rằng các tôn giáo ngoài kitô cũng là phương tiện Thiên Chúa dùng để cứu độ con người, nếu không việc đối thoại chỉ là giả hình và thuần túy “ngoại giao”.

            Đối thoại với các tôn giáo ngoài kitô là để thấy rõ những giá trị của tôn giáo ngoài kitô, thấy rõ điều hay điều tốt và cả những điều không thể dung hợp với đức tin kitô giáo nữa, hiểu biết hơn về các tôn giáo ngoài kitô, cũng như những biểu tượng đức tin và những hành vi biểu lộ niềm tin của họ, hiểu biết cách diễn tả thực tại thiêng liêng theo nền văn hóa của dân tộc theo tôn giáo này, và như vậy chúng ta có thể trình bày đức Yêsu cho những người theo tôn giáo đó cũng như cho dân tộc này cách thích hợp hơn.

            Việc tìm hiểu các tôn giáo ngoài kitô rất quan trọng trong việc truyền giáo, trong việc loan báo Tin Mừng đức Yêsu Phục Sinh, bởi vì khi đã thấy rõ giá trị và ý nghĩa các biểu tượng của các tôn giáo ngoài kitô cũng như cách diễn tả tâm tình tôn gíáo của dân tộc với nền văn hóa riêng, chúng ta có thể rao giảng tin mừng đức Yêsu theo những biểu tượng về thực tại thiêng liêng mà ta đã biết. Nói một cách khác, chúng ta kitô hóa các biểu tượng[53] nơi các tôn giáo ngoài kitô nếu có thể được.




Thay lời kết:
BIỂU TƯỢNG, ÂN SỦNG VÀ THÁNH THẦN

            Nói về biểu tượng và ân sủng mà không đề cập tới Thánh Thần là một thiếu sót lớn, bởi vì ân sủng là tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, làm cho con người được nên giống Thiên Chúa.

            Thánh Thần là ngôi vị thứ ba của Thiên Chúa, Ngài là “hơi thở” của Cha và Con, nhiệm xuất từ Cha và Con, là tình yêu giữa Cha và Con. Ngài được biệt gán cho nhiệm vụ thánh hóa con người và toàn thể vũ trụ! Khi trở về cùng Cha, Đức Yêsu đã gởi Thánh Thần của Ngài trên các tông đồ và toàn thể Giáo Hội, để Thánh Thần tiếp tục và hoàn tất chương trình cứu chuộc loài người của Chúa Cha, được Chúa Con nhập thể thi hành. Có thể nói tất cả những hướng chiều đi lên với Thiên Chúa của con người, đều là tác động của Thánh Thần.

            Ân sủng là tác động của Thiên Chúa nhằm cứu độ con người, luôn đi trước thái độ và lời đáp trả của con người! Không phải chúng ta yêu Thiên Chúa trước, nhưng chính Ngài đã yêu chúng ta trước và đã phó mạng sống mình vì ta (1Yn.4, 19.10). Không ai đến được với Ta nếu Cha Ta không lôi kéo nó (Yn.6, 44); không ai có thể tuyên xưng Yêsu là Chúa mà không bởi Thánh Thần (1Cor.12, 3).

            Thiên Chúa yêu thương thế gian vô cùng, Ngài muốn cứu độ tất cả mọi người (1Tm.2, 4), muốn mọi người được nên giống Ngài, được tham dự sự sống vĩnh cửu của Ngài. Tình yêu của Thiên Chúa chan hòa vũ trụ và tràn ngập lòng người, và Thánh Thần Tình Yêu luôn luôn hoạt động nơi lòng mỗi người để lôi kéo họ tới với Thiên Chúa, để họ được cứu độ nhờ Đức Yêsu Kitô. Như trước khi tạo dựng vũ trụ, Thiên Chúa đã yêu thương từng người chúng ta, cũng vậy trước khi tình yêu ân sủng được biểu lộ cụ thể, thì Thiên Chúa đã yêu thương ta trong Thánh Thần. Tình yêu đi trước bí tích, biểu tượng.

            Tình yêu là tương quan liên vị nên cần phải được diễn tả và biểu lộ. Với con người vì là hồn và xác, nên tình yêu cần và phải được diễn tả qua những dấu chỉ. Thiên Chúa đã biểu lộ tình yêu của Ngài khi ban Con Một cho loài người (Yn.3, 16); Đức Yêsu Con Thiên Chúa nhập thể, cũng đã chấp nhận chết nhục nhã trên thập giá để biểu lộ tình yêu của Ngài và của Cha cho con người; và Đức Yêsu đã thiết lập Giáo Hội như đại diện hữu hình của Ngài nơi trần gian, để trở thành dấu chỉ cứu độ cho con người, bằng việc loan báo Lời Chúa và cử hành các biểu tượng ban ân thánh hữu hiệu.

            Thánh Thần Thiên Chúa luôn hoạt động khắp nơi và trong lòng mỗi người, nên tất cả mọi hành vi tốt của con người đều là hành vi siêu nhiên và có giá trị cứu độ. Mọi hành vi tốt đều là ân sủng của Thiên Chúa[54]. Thánh Thần hoạt động rất tự do, không bị giới hạn trong những cơ cấu và định chế: “khí muốn đâu thì thổi, ông nghe được tiếng, nhưng nào có biết từ đâu mà đến hay lại đi đâu? cũng vậy với mọi kẻ sinh bởi Thần Khí” (Yn.3, 8). Hoạt động của Thánh Thần nơi con người cũng được biểu lộ ra bên ngoài, chẳng hạn Thánh Thần đã tỏ lộ hoạt động trong ngày lễ ngũ tuần (Cv.2, 1tt) dù rằng con người, cụ thể các tông đồ đã nhận lãnh Thánh Thần ngay trong ngày đức Yêsu phục sinh (Yn.20, 22). Như vậy ân sủng, tình yêu của Thiên Chúa được cụ thể hóa, cũng được diễn tả qua các dấu chỉ biểu tượng.

            Tất cả là ân sủng[55]. Hoạt động của Thánh Thần Tình Yêu Thiên Chúa bao phủ tất cả hoàn vũ và tận trong thâm sâu con người. Chính Thánh Thần tác động để con người vươn lên, nhận ra những điều tốt lành thiện hảo cũng như những điều không hợp với bản tính con người, lôi kéo con người đến với Thiên Chúa, và giúp con người biểu lộ tâm tình của mình qua các biểu tượng, dấu chỉ thực tại thiêng liêng. Không có gì tốt lành thánh thiện mà ở ngoài Thiên Chúa, mà lại không được Thánh Thần tác động và hướng dẫn! Những gì tốt lành thánh thiện, những gì giúp con người vươn lên với Thiên Chúa ngay cả trong các tôn giáo ngoài kitô, đều là hoa trái của Thánh Thần. Chính Thánh Thần đã giúp những người sống trong các tôn giáo ngoài kitô gặp gỡ Thực Tại Tuyệt Đối qua các biểu tượng, thánh hóa và ban cho họ hồng ân vô giá “trở nên đền thờ Thiên Chúa Ba Ngôi” ngay cả khi họ không ý thức.

 

 

 

 

TẤT CẢ CHO VINH DANH CHÚA HƠN

Viết xong 20:40' ngày 06.02.1985

Lễ thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

 

Art.                  Articulus                     Bài

Art. cit.            Articulo citato Bài đã dẫn    

AUG.                                                   Augustinô

DS.                 DENZINGER-SCHONMETZER, Enchiridion Symbolorum Definitionum et Declarationum de rebus fidei et morum, HERDER MCMLXIII

Ep.                  Epistula                      Thư

E.T.                 K. RAHNER, Ecrits Théologiques

F.V.                 Coll. FOI VIVANTE

GH.                 Vatican II, Hiến Chế Giáo Hội

Ibid.                 Ibidem                        Cùng vậy

LG.                  Lumen Gentium    Hiến Chế Giáo Hội

NK.                  Ngoài kitô giáo. Tuyên ngôn của Công Đồng Vatican II về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài kitô

op. cit.             Opere citato               Sách đã dẫn

p (pp).                                                 Trang (các trang)

PG.                 J. P. MIGNE, Patrologiae cursus completus, Series graeca, PARISIIS 1857 seq.

PL.                  J. P. MIGNE, Patrologiae cursus completus, Series prima latina, PARISIIS 1844 sqq.

R.                    ROUET DE JOURNEL, Enchiridion patristicum, HERDER MCMLXV

S.T.                 St.THOMAS, Summa Theologiae

TG.                  Sắc lệnh Truyền giáo của Công Đồng Vatican II.

·        Trong bài này, ký hiệu Kinh Thánh dùng theo Cha Nguyễn Thế Thuấn, bản dịch in bởi DÒNG CHÚA CỨU THẾ 1976.

·        Ký hiệu của Công Đồng Vatican II dùng theo bản dịch của Giáo Hoàng Học Viện ĐALAT- VIỆT NAM 1972. 


THƯ MỤC

 

            Ở đây chỉ ghi những sách hoặc những bài báo đã được trích dẫn.

A. BALCHAND, The salvific value of non-christian religions according to Asian Christian Theologians’ Writtings in Asian Published Theological Journals 1965-1970. EAPI-MANILA 1973.

CH. BAUMGARTNER, La Grâce du Christ, Coll. LE MYSTÈRE CHRÉTIEN, DESCLÉE- BELGIUM 1963

C. BIHLMEYER et H. TUCHLE, Histoire de l'Eglise, t. I, SALVATOR 1962

E. C. BLACKMAN, Faith- Faithfulness, trong INTERPRETER'S DICTIONARY OF THE BIBLE, vol. II,

 ABINGDON PRESS- NEWYORK 1962

LEONARDO BOFF, Le sacrement de mariage, trong CONCILIUM 87 (1973), pp. 21-31

E. CASSIRER, An essay on man, YALE UNIVERSITY PRESS 1962

Y. CONGAR, Vaste monde ma paroisse: Vérité et dimensions du salut,

TÉMOIGNAGE CHRÉTIEN 1968- FV.27

ÉTIENNE CORNÉLIS, Valeurs chrétiennes des religions non-chrétiennes, CERF 1965

M-M. DAVY, Les symboles et l'histoire, trong LE SYMBOLE, bộ RECHERCHES ET DÉBATS n. 29

PARIS XII (1959)

JOSEPH DE FINANCE, Connaissance de l'être: Traité d'ontologie, DDB- PARIS 1966

HENRI DE LUBAC, Dieu se dit dans l'histoire, CERF 1974 FV. 159.

GILDO DOMINICI, Notes de théologie morale. Les vertus thélogale, GHHV sans date ni lieu

ANTON DREXEL, Bí tích đại cương, GHHV- DALAT không ngày

ANTON DREXEL, Traité de la grâce du Christ ou L'homme dans le Christ,

COLLÈGE PONTIFICAL SAINT PIE X- DALAT 1972

MIRCEA ÉLIADE, Le sacré et le profane, GALLIMARD 1965

PAUL FOULQUIÉ et RAYMOND SAINT-JEAN, Dictionnaire de la langue philosophique, PUF- PARIS 1962

A. GAUDEL, art. “Péché eriginel”, trong DTC XII/1 PARIS 1933

M. HEINRICHS, Théologie catholique et pensée asiatique, CASTERMAN 1965

HUYỀN CHÂN, Đạo Phật, PHẬT HỌC VIỆN TRUNG PHẦN-NHA TRANG 1965

LOUIS LEAHY, Philosophie de l'homme, COLLÈCE PONTIFICAL ST. PIE X- DALAT 1974

éd. XAVIER LÉON- DUFOUR, Vocabulaire de théologie biblique, CERF- PARIS 1966

YUSE PHẠM THANH LIÊM, Thần học các tôn giáo ngoài kitô,  bđm- ĐALAT 1982

LÃO TỬ, Đạo Đức Kinh, bản dịch NGUYỄN DUY CẦN, xb. KHAI TRÍ-SAIGON 1961

GABRIEL MARCEL, Foi et réalité, AUBIER 1967 FV.38

HENRI MAURIER, Essai d'une théologie du paganisme, L'ORANTE- PARIS  1965

J. VAN DER MEERSCH, Art. “Grâce”, trong DTC VI/2

LOUIS MILLET, Le pouvoir du symbolisme, trong Le Symbole, RECHERCHES ET DÉBATS n.29, PARIS XII (1959)

LOUIS MODEN, Le miracle- signe du salut, DDB. 1960

G. MUSCHALEK, La création de l'alliance, Problème des rapports entre la nature et la grâce,

trong MYSTERIUM SALUTIS VI, BURNS-OATES 1969

NARADA MAHA THERA, The Buddha and his teachings,

bản dịch của PHẠM KIM KHÁNH, Đức Phật và Phật pháp, HẠNH PHÚC- SG.1971

GEOFFREY PARRINDER, Revelation in other Scriptures, trong STUDIA MISSIONALIA, vol.20 (1971),

éd. M. DHAVAMONY, sj, GREGORIANA 1971

É. PORTALIÉ, art. “Augustin”, trong DTC I/1 PARIS 1923

É. PORTALIÉ, art: “Abélard”, trong DTC I/1 PARIS 1923

B. POSCHMANN, Pénitance et onction des malades, CERF 1966

KARL RAHNER, Piété personnelle et piété sacramentelle, trong ÉCRITS THÉOLOGIQUES, t. II, DDB 1960

KARL RAHNER, La nature et la grâce, trong QUESTIONS THÉOLOGIQUES AUJOURD'HUI, t. II,

DDB-PARIS 1963

KARL RAHNER, Pour la théologie du symbole, trong E.T., t. IX, DDB. 1968

K. RAHNER, Parole et Eucharistie, trong E.T., t. IX, DDB. 1968

K. RAHNER, Eglise et Sacrements, trong QUESTIONES DISPUTATAE 10, DDB.1970

A-M. ROGUET, Renseignements techniques, trong THOMAS D’AQUIN, S.T. III, q.60-65, bản dịch của A-M. ROGUET, DESCLÉE et Cie, PARIS 1945, pp.255-380

HENRI RONDET, Gratia Christi, BEAUCHESNE ET SES FILS- PARIS 1964

HENRI RONDET, Essais sur la théologie de la Grâce, BEAUCHESNE- PARIS 1964

E. SCHILLEBEECKX, Le Christ sacrement de la rencontre de Dieu, CERF 1960 FV.133

HEINZ ROBERT SCHLETTE, Towards a Theology of Religions, bản dịch của W.J. O'HARA, HERDER-FREIBUG 1966,  Coll. QUESTIONES DISPUTATAE 14

P. SCHOONENBERG, L'home dans le péché, trong MYSTERIUM SALUTIS VIII, CERF 1970

OTTO SEMMEILROTH, Art. “Mediatorship”, trong SACRAMENTUM MUNDI, BURNS-OATES 1969

GUSTAV SIEWERTH, L'home et son corps, PLON-PARIS 1957

GUSTAVE THILS, Propos et problèmes de la théologie des religions non-chrétiennes, CASTERMAN 1966

St. THOMAS d'AQUIN, Summa Theologiae, MARIETTI 1952

PAUL TILLICH, Aux frontières de la religion et de la science, CENTURION 1970

JEAN TROUILLARD, Symbole et distance, trong Le Symbole, RECHERCHES ET DÉBATS n. 29,
PARIS XII (1959)

JAN- HENDRIK WALGRAVE, Un salut aux dimensions du monde,

bản dịch từ tiếng Hà Lan bởi Emmanuel Brutsaert, CERF- PARIS 1970

 

 

 

CHO VINH DANH CHÚA HƠN

AMDG

AD MAIOREM DEI GLORIAM

 

 

 

 

 

Bài kết thúc thời gian học thần học,

xong 20:40’ ngày lễ thánh Phaolô Miki (06.02.85)

 

 


HOME    CHIA SẺ LỜI CHÚA    LINH ĐẠO    THẦN HỌC    ĐỜI SỐNG    SOME THEMES IN ENGLISH 

DẪN NHẬP THẦN HỌC   MẶC KHẢI   SẼ SỐNG NẾU BẠN TIN   TÔN GIÁO NGOÀI KITÔ   ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG

 

 

 

Chúc các bạn an vui.

phamthanhliem

jptl@jptl.org

 



[1] Vocabulaire de théologie biblique, ed. X. LÉON-DUFOUR, CERF-PARIS 1966, art. “Foi”, col.389

E. C. BLACKMAN, art. “Faith-Faithfulness”

trong INTERPRETER' S DICTIONARY OF THE BIBLE, vol.II, pp. 222-223, ABINGDON PRESS- NEW JORK 1962

[2] G. DOMINICI, Notes de théologie morale- Vertus théologales, GHHV., pp. 15.17

[3] G. DOMINICI, op. cit., p.10

G. MARCEL, Foi et la réalité, AUBIER 1967, F.V. 38, PP. 95- 100

G. Marcel cho rằng có sự khác nhau sâu xa giữa ý kiến, xác tín, và đức tin. Cf. G. MARCEL, op. cit., pp. 93.96-97.

[4] G. MARCEL, Ibidem

[5] H. DE LUBAC, Dieu se dit dans l'histoire, CERF 1974 FV.159, p.85

[6] ROQUEPLO, La foi d' un mal croyant, CERF-PARIS 1969, p. 169; J. MOUROUX, Je crois en Toi, CERF-PARIS 1968, p. 25tt trích bởi G. DOMINICI, op. cit., p. 9

[7] Facienti quod in se est, Deus non denegat gratiam;

trích bởi G. THILS, op. cit., p. 16

[8] E. SCHILLEBEECKX, Le Christ- sacrement de la rencontre de Dieu, CERF 1960, F.V. 133, p. 160

[9] Cf. A. DREXEL, op. cit., p. 128

[10] G. DOMINICI, op. cit., p. 45.46.50

[11] Những người không nhận biết Thiên Chúa, và đặc biệt những người chủ trương vô thần thường dựa vào ý niệm nào đó về Thiên Chúa và với lý luận họ khẳng định “niềm tin vô thần” của họ; chẳng hạn họ lý luận: nếu Thiên Chúa hiện hữu thì Ngài có những phẩm tính này phẩm tính nọ, và nếu vậy thì phải như vầy như vầy, nhưng thực tế thì không có như vậy, vậy không có Thiên Chúa.

Cf. G. MARCEL, Foi et réalité, AUBIER 1967, F.V. 38, p. 91. Chẳng hạn nếu Thiên Chúa nhân lành và toàn năng thì tại sao có sự dữ? Mà chúng ta thấy sự dữ hiện diện đầy tràn, vậy Thiên Chúa không hiện hữu.

Nếu Thiên Chúa toàn tri thì con người đâu có tự do!

[12] Xem ROBERT COFFY, Dieu des athées, xb. CHRONIQUE SOCIAL DE FRANCE

[13] Kinh Nguyện Thánh Thể IV trong SÁCH LỄ GIÁO DÂN- SÀIGON 1972, trg. 1415

[14] G. DOMINICI, op. cit., pp. 47-48; Cf. J. MARITAIN, Neuf lecons sur les notions premières de la philosophie morale, pp. 119-121.

J. MARITAIN, L'opzione fondamentale della vita morale e la grazia, GREGORIANUM 41 (1960), pp. 601-603.

J. DE FINANCE, Ethica generalis, PUG-ROMAE 1959, pp. 155-162

[15] G. DOMINICI, op. cit., pp. 49-50

[16] Trong D.C. 1951 col.1480 trích bởi Y. CONGAR, op. cit., p. 141

[17] Nơi các kitô hữu đầu tiên, lời tuyên xưng “Tôi tin một Thiên Chúa là Cha toàn năng, và đức Yêsu Kitô Con Một Thiên Chúa,...” được gọi là các biểu tượng đức tin (biểu tín).

Xem DS.1-5.6tt

[18] RECHERCHES ET DÉBATS XII (1969), Le Symbole, trg. 8

[19] J. TROUILLARD, art. “Symbole et distance” trong RECHERCHES ET DÉBATS XII (1969), Le Symbole, trang 40-41

[20] P. TILLICH, Aux frontières de la religion et de la science, CENTURION 1970, pp. 19-20

[21] FERNAND CHAPEY trong P. TILLICH, op. cit.,p, 22

[22] P. TILLICH, op. cit., p. 162-163

Đức Kitô cũng là biểu tượng lịch sử.

[23] HUYỀN CHÂN, Đạo Phật,

PHẬT HỌC VIỆN TRUNG PHẦN NHA TRANG 1965, trg. 16

[24] HUYỀN CHÂN, op. cit., trg. 45

[25] NARÀDA M. T., Buddha and his teachings,

bản dịch của PHẠM KIM KHÁNH, Đức Phật và Phật pháp, SG.1971, trg. 289-290

[26] Cf. L. MONDEN, Le miracle- signe du salut, DDB. 1960, p. 121

[27] É. CORMÉLIS, Valeurs chrétiennes des religions non- chrétiennes, CERF 1965, p. 58

[28] RAYMOND PANIKKAR, “Confrontation between Hinduism and Christ”, trong LOGOS X (June 1969), p. 48, 43.

PARADKAR, Christian Encounter, p. 33,

trích bởi ASANDAS BALCHAND, sj, The salvific value of non- christian religions according to Asian Christian Theologians Writings in Asian Published Theological Journals 1965-1970, EAPI- MANILA 1973, p. 37

[29] Cf. E. SCHILLEBEECKX, Le Christ- sacrement de la rencontre de Dieu, CERF 1960, F.V. 133.

Cf. A. DREXEL, Bí tích đại cương, GHHV-DALAT, không ngày.

[30] K. RAHNER, Pour la thélogie du symbole, trong E.T., IX, DDB. 1968, p. 34-35

[31] K. RAHNER, Parole et Eucharistie,, trong E.T., IX, DDB.1968, p. 74

[32] K. RAHNER, op. cit., pp. 67-68

[33] A. DREXEL, Bí tích đại cương, GHHV- DALAT không ngày, trg. 62, trích dẫn GABRIEL BIEL, In 4 S., d. 3, q. unica, a. 2

                                St. THOMAS, S.T., III, 62,

                                St. THOMAS, 4 S, d.1, q.2, a. 6

                                St. AUGUSTIN, In Jon. tract., 80, 3 PL.35, 1840

[34] Với bí tích thánh tẩy, chúng ta thấy rõ điều này; nhưng còn với các bí tích khác? Một điều chúng ta lưu ý: người Công Giáo tin có bảy bí tích, nhưng anh em Tin Lành không tin truyền chức và xức dầu, là bí tích! Anh em Chính Thống coi bí tích Rửa tội và bí tích Thêm sức là một! Những bất đồng giữa Chính thống giáo, Công Giáo và Tin Lành, là số bí tích; và hàm chứa vấn đề: Đức Kitô có thiết lập những bí tích mà các giáo phái khác nhau- đều là Kitô giáo- không tin nhận không?! Vấn đề này chúng ta không bàn đến trong phạm vi bài này.

[35] Giáo Lý Công Giáo, TÂN ĐỊNH THIỆN BẢN- SAIGON 1967, số 150, trg. 60.

Sách Bổn dạy những lẽ đạo cần cho được rỗi linh hồn, ĐỊA PHẬN HÀ NỘI- HIỆN TẠI 1957, phần II, đoạn V, điều 2, trg. 76

[36] B. POSHMANN, Pénitance et onction des malades, CERF 1966, Coll. HISTOIRE DES DOGMES, p. 168

[37] DUNS SCOTT, Ox., IV, dist.17, q.1, n.11

cf.B.POSHMANN, op. cit., p. 63

[38] DUNS SCOTT, Ox., IV, dist.14, q. 4, n. 6

cf. B. POSHMANN, op. cit., p.163

[39] Ibidem, n. 7

[40] K. RAHNER, Piété personnelle et piété sacramentelle,

trong E.T., II, DDB. 1960, trg. 120

K. RAHNER, Parole et Eucharistie, trong E.T., IX, DDB. 1968 p. 83

[41] Ibidem, trg. 83

[42] K. RAHNER, Piété personnelle et piété sacramentelle, trong E.T., II, DDB. 1960, p. 124

[43] Đây là quan niệm của thánh Thomas d'Aquin

K. RAHNER, op. cit., p. 125

[44] Vì ân sủng cũng có tính cách nhập thể, biểu lộ qua thân xác.

[45] K. RAHNER, op. cit., pp. 135.138-139.141-142

[46] Xem thêm K. RAHNER, Eglise et Sacrements,

DDB. 1970, p. 38-39, Coll. QUESTIONES DISPUTATAE 10

[47] Không hàm ý loại trừ việc lãnh bí tích.

[48] INNOCENTIUS III, Ep. “Maiores Ecclesiae causas” ad Ymbertum archiep. Arelat., exeunte a.1201; DS. 780/410/

E. SCHILLEBEECKX, op. cit., p.160

[49] DS.780

[50] DS.1310.1348.1602

[51] VATICAN II, Sắc lệnh Truyền giáo, số 1

[52] VATICAN II, Tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài kitô, số 2

[53] Theo thiển kiến, khái niệm Đạo nơi đạo Lão là một biểu tượng có thể kitô hóa:

“Đạo khả Đạo phi thường Đạo. Danh khả phi thường Danh”

LÃO TỬ, Đạo Đức Kinh, IA

bản dịch NGUYỄN DUY CẦN, KHAI TRÍ- SAIGON 1961, trg. 37

[54] Cf. K.RAHNER, La nature et la grâce,

trong QUESTIONS THÉOLOGIQUES AUJOURD'HUI, t. II, DDB. 1963, p. 33

[55] K. Rahner cho rằng ân sủng là chính Thiên Chúa... và không thể hiểu ân sủng bằng phạm trù “sự vật” dù rằng lịch sử triết học và thần học có diễn tả ân sủng như một thực tại, như một tính chất, như một tùy thể, như một tình trạng,...

                Sở dĩ lịch sử triết học và thần học phải dùng phạm trù hữu thể để nói về ân sủng, bởi vì có gì “thực” hơn tình yêu Thiên Chúa, có gì có thể biến đổi con người hữu hiệu bằng tình yêu Thiên Chúa,... , và bởi vì chúng ta phải diễn tả những thực tại cao siêu bằng những hạn từ trừu tượng, nên phải trong tinh thần đó chúng ta mới hiểu được những gì triết học và thần học thời trung cổ nói về ân sủng.

Xem K. RAHNER, Ibid., p. 28-29.32.

Cf. CH. BAUMGARTNER, La grâce du christ, DESCLÉE- BELGIUM 1963, P. 164-166