HOME CHIA
SẺ LỜI CHÚA LINH ĐẠO THẦN
HỌC ĐỜI SỐNG SOME THEMES IN ENGLISH
DẪN NHẬP THẦN HỌC MẶC KHẢI SẼ
SỐNG NẾU BẠN TIN TÔN GIÁO NGOÀI KITÔ ÂN
SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG
ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG
Jptl
MỤC LỤC:
PHẦN III: TƯƠNG
QUAN GIỮA CÔNG GIÁO VÀ TÔN GIÁO KHÔNG KITÔ
i). Đức tin cần thiết để được cứu độ
b). Qua việc thờ
phượng trong tôn giáo
B. BÍ TÍCH CÔNG
GIÁO VÀ BIỂU TƯỢNG TÔN GIÁO KHÔNG KITÔ
a). Đặc tính của
bí tích Công Giáo
i). Sinh ân sủng do sự (ex opere operato)
b). Biểu tượng
ban ân sủng nơi tôn giáo không kitô
i). Ơn công chính ngoài bí tích cho kitô hữu
ii). Người Do Thái giáo thời Cựu Ước và hiện tại
iii). Người sống trong tôn giáo ngoài kitô
Thay lời kết: BIỂU TƯỢNG, ÂN SỦNG VÀ THÁNH
THẦN
Tất cả mọi người- nếu họ được cứu
độ, dù chưa nhận biết Thiên Chúa hoặc đang sống trong các tôn giáo ngoài
kitô- đều được cứu độ nhờ đức Yêsu
Kitô và Giáo hội của Người, vì chỉ có một Đấng trung gian duy nhất
giữa Thiên Chúa và con người (1Tm.2, 5) và vì dưới gầm trời này không có
một Danh nào khác đã được ban xuống cho nhân loại để phải nhờ vào đó mà
chúng ta trông được ơn cứu thoát (Cv.4, 12), cũng như vì ngoài Giáo Hội
không có ơn cứu rỗi.
Kitô hữu được cứu độ nhờ:
·
tin vào Thiên Chúa và
đức Yêsu Kitô, vì “không có đức tin, thì vô phương làm đẹp lòng Thiên
Chúa” (Dt.11, 6);
·
lãnh nhận bí tích rửa
tội và các bí tích khác;
·
ăn ngay ở lành, sống
giới răn yêu thương như Thiên Chúa truyền cho chúng ta.
Còn những người chưa nhận
biết Thiên Chúa cách rõ ràng, nghĩa là họ chưa tin và không lãnh nhận các
bí tích như chúng ta, phải chăng họ được cứu độ chỉ nhờ ăn ngay ở lành,
sống theo lương tâm? hay họ vẫn được cứu nhờ đức tin, qua các biểu tượng
xét như dấu chỉ của thực tại vô hình? Cũng vậy đối với những người
sống trong các tôn giáo ngoài kitô, họ có được cứu bởi đức tin không? và
đức tin nào? và các biểu tượng giúp họ nhận ân sủng cứu độ như thế
nào?
Trong phần tương quan giữa Công Giáo và các tôn giáo
ngoài kitô này, chúng ta sẽ xét về:
đức tin;
tương quan giữa bí tích Công
Giáo và biểu tượng ban ân sủng nơi các tôn giáo ngoài kitô;
công giáo tính của Giáo Hội
thể hiện qua việc truyền giáo.
Thánh Phaolô trong thư gởi tính hữu
Do Thái khẳng định: “Không đức tin thì vô phương làm đẹp lòng Thiên Chúa”
(Dt.11, 6).
Vậy đức tin là gì? Để chỉ điều này tiếng Do thái
dùng những chữ:
·
nma (Aman) gợi lên sự chắc chắn, vững chãi; với từ ngữ
này bản LXX dịch bằng chữ PistiV, Pisteuw, Alhqeia, và bản phổ thông dịch bằng chữ fides, credere,
veritas;
·
hTB (Batah) gợi lên sự bảo đảm, tín thác; bản LXX dịch
bằng ElpiV, Elpizw, Pepoiqa; bản phổ thông dịch bởi spes, sperare, confido[1].
Tin là một hành vi nhân linh, nghĩa là với tất cả tự do
và ý chí, chấp nhận một ai đó, cho những điều họ nói là thật, chắc chắn,
trông cậy được[2]. Hiểu
như vậy, tin là sự gặp gỡ giữa hai ngôi vị, là một cách biết, là sự thông
hiệp giữa hai ngôi vị. Đối với kitô hữu trong lãnh vực tôn giáo, tin là
biết Thiên Chúa hiện hữu, chấp nhận tất cả những gì Ngài mặc khải, thông
hiệp với Thiên Chúa trong tình yêu.
Đối tượng đức tin không phải là một sự vật nhưng là một
ngôi vị. Người ta không bao giờ tin vào cái gì, nhưng tin vào ai đó, với
đối tượng là một sự vật, người ta có thể xác tín, chứ không tin, không đặt
niềm tin tưởng vào một sự vật[3].
Tin không chỉ chấp nhận ai đó hiện hữu, nhưng còn là tin
tưởng phó thác trông cậy nơi người đó. Tôi tin vào một ngân hàng, là
tin vào người lãnh đạo ngân hàng đó có khả năng đáp ứng những đòi hỏi cũng
như hy vọng của tôi[4]. Một
người mẹ tin vào con mình dù đã bao lần làm cho bà thất vọng, không phải
vì bà đơn sơ hy vọng hão hoặc ảo tưởng nơi người con, nhưng còn vì cái sâu
xa khác nữa. Như vậy đức tin là hành vi qua đó con người phải dấn thân, và
như vậy cũng có thể nói, có tính chất như một cuộc đánh cá phần nào, đòi
con người tin phải liều lĩnh, liều lĩnh nhưng vẫn có sự chắc chắn nào đó.
Đức tin phải được biểu lộ qua việc làm. Thánh Yacôbê
tông đồ nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Yac.2,
17). Đức tin là lời đáp lại mặc khải của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa
không mặc khải, thì con người không thể biết về Thiên Chúa, và như vậy
không thể tin vào Thiên Chúa[5].
Ngày nay Thiên Chúa vẫn tiếp tục mặc khải cho con người qua trung gian những
người rao giảng, và con người vẫn đáp ứng bằng đức tin, bằng sự vâng phục
đức tin: “Làm sao kêu lên Đấng mà người ta không tin? làm sao tin Đấng mà
người ta không được nghe? làm sao nghe nếu không có người rao giảng?”
(Rm.10, 14).
Đức tin có được là do mặc khải. Vì con người là tinh thần
và thân xác, là tinh thần nhập thể, nên Thiên Chúa mặc khải cho con người
qua những dấu chỉ khả giác, và rồi con người đáp trả bằng lòng tin
được biểu lộ qua lời nói, qua việc làm, qua những dấu chỉ khả giác.
Cũng như trong lãnh vực tình yêu, người ta không chỉ yêu
bằng lời nói nhưng còn bằng cả việc làm, nếu chỉ nói yêu mà không có
hành động cụ thể đi theo, e rằng người ta không yêu thật (1Yn.3, 11-18).
Nếu ta chỉ nói ta tin, mà không diễn tả đức tin bằng hành động, thì e
rằng chúng ta cũng không tin thật. Thánh Yacôbê tông đồ nói: “Hãy cho
tôi thấy đức tin không việc làm của anh, và tôi sẽ lấy việc làm của tôi
mà cho anh thấy đức tin của tôi... cũng như thể xác không hồn là
thây chết” (Yac.2, 18.26).
Chỉ qua dấu chỉ mà hữu thể nhân linh mới có thể gặp gỡ
nhau, và nếu không qua dấu chỉ, không có cuộc gặp gỡ đích thực giữa con
người[6]. Chính
vì vậy Thiên Chúa đã nhập thể, cần phải có người đi rao giảng, và cũng
cùng lý do mà con người diễn tả đức tin của mình qua những dấu chỉ, qua
lời nói và qua chính cuộc sống của mình với những việc làm. Trong mục này
chúng ta tìm hiểu đức tin của những người chưa nhận biết Thiên Chúa, và
đức tin của những người sống trong các tôn giáo ngoài kitô được diễn tả qua
cuộc sống thường ngày.
Ở đây chúng ta đề cập đặc biệt đến
người chưa nhận biết Thiên Chúa, hoặc những người cũng tin có sự hiện hữu
của một Đấng Tuyệt Đối nhưng họ không sống trong một tôn giáo nào.
Với những người vô thần, công đồng Vatican II dạy: “Cả
những kẻ chưa nhận biết Thiên Chúa cách rõ ràng nhưng nhờ ơn Chúa, họ cố
gắng sống đời chính trực, thì Chúa quan phòng không từ chối ban ơn trợ lực
cần thiết để họ được cứu rỗi” (LG.16). Lời dạy của công đồng hoàn toàn phù
hợp với truyền thống của Giáo Hội: “Thiên Chúa không từ chối ân sủng cho
những người làm điều họ phải làm”[7]. Trong
lịch sử thần học chúng ta thấy Giáo Hội dạy những người chết trong tình
trạng nguyên tội không được thừa hưởng Nước Trời, thế nhưng điều này không
hàm chứa khẳng định “một người chết không chịu phép rửa tự bản chất phải
loại khỏi Nước Trời”[8].
Đức Giáo Hoàng Innocente III khi nói về các con trẻ chết trong tình trạng
không được lãnh phép rửa, Ngài nói: “Thiên Chúa không thể nào lại để cho
bao nhiêu con trẻ phải hư mất đời đời”[9].
Với lời khẳng định của công đồng trong LG.16, chúng ta
giải thích làm sao lời kết án của Đức Giáo Hoàng Innccentê XI năm 1679 về
những mệnh đề của những người chủ trương nền luân lý “rộng rãi”? Mệnh đề
bị kết án chủ trương:
·
“Đức tin Thiên Chúa duy
nhất được coi là cần thiết, sự cần thiết phương tiện, không phải đức tin
rõ ràng Thiên Chúa Đấng thưởng phạt” (DS.2122);
·
“Đức tin theo nghĩa
rộng, từ chứng từ các tạo vật hay bởi nguyên do tương tự đủ để được công
chính hóa” (Ds.2123).
LG.16 cho rằng, không những người tin Thiên Chúa hiện hữu
nhưng cả những người chưa nhận biết Ngài cũng có thể được cứu rỗi. Sở dĩ
những người chủ trương nền luân lý rộng rãi bị kết án vì họ cho rằng chỉ
cần tin có Thiên Chúa là đủ để được cứu độ, và như vậy hàm chứa phủ nhận
sự cần thiết của việc mặc khải trong dòng lịch sử. Lập trường chủ trương
như vậy rõ ràng là sai lầm!
Lời kết án của Đức Giáo Hoàng Innocentê XI ở trên không
áp dụng cho những người không nhận biết Thiên Chúa khi họ không thấy rõ
phải tin; vì người ta chỉ bị buộc cách luân lý phải tin khi người ta thấy
rõ sự khả tín[10], còn nếu
không thấy rõ thì không buộc phải tin.
Ai cũng biết là mọi người đều được hưởng mặc khải tự
nhiên qua tạo vật, lương tâm. Nếu con người cố tình từ chối khi thấy rõ
phải tin, người đó có lỗi và như vậy coi như cố tình từ chối ơn cứu độ;
nhưng nếu người đó không thấy rõ phải tin, có thể vì một lý do nào đó như
ảnh hưởng nền giáo dục và xã hội, vì hiểu sai về Thiên Chúa[11],v.v...,
người đó không buộc phải tin; và như vậy khi người đó không tin, người đó
không có lỗi; trường hợp sau này là trường hợp được công đồng nói tới.
Dầu ngày nay vẫn có những người chủ trương vô thần, nhưng
thời gian gần đây có những tác phẩm nói về Thiên Chúa của người vô thần[12].
Chúng ta không biết họ trả lời thế nào trước Thiên Chúa về khẳng định vô thần
của mình, có thể họ không có lỗi và nếu vậy họ là đối tượng của lời cầu
trong kinh nguyện Thánh Thể: “chỉ một mình Chúa biết lòng tin của họ”[13].
Những người vô thần, những người chưa nhận biết Thiên
Chúa, và cả những người nhận biết Thiên Chúa hiện hữu nhưng không sống
trong một tôn giáo nào, tất cả những người này đều lãnh nhận mặc khải
tự nhiên như vũ trụ vạn vật, lương tâm và bao dấu chỉ tự nhiên trong
cuộc sống con người. Có thể họ không đọc ra ý nghĩa của biểu tượng “thực
tại thiêng liêng” này, dù những dấu chỉ hay biểu tượng này vẫn hiện diện
đối với họ:
·
vũ trụ đẹp tươi là dấu
chỉ cho thấy phải có Đấng sáng tạo tuyệt vời;
·
tình yêu giữa con người
với nhau như tình yêu nam nữ, tình yêu vợ chồng, tình yêu con cái, tình
người, tình bạn,... là dấu chỉ cho thấy có một Đấng yêu họ vô cùng;
·
sự chân thật, trung
thành, quảng đại mà họ gặp trong cuộc sống thường ngày cũng là dấu chỉ
biểu tượng cho thấy chân, thiện, mỹ của Đấng đã thông ban những sự đó cho con
người;
·
lương tâm như tiếng nói
nhủ bảo họ ăn ngay ở lành, làm lành lánh dữ... nhưng có thể họ không nhận
ra tiếng nói luôn trung thành dõi theo họ là của Thượng Đế, dù trong cuộc
sống họ vẫn tùng phục vâng lời.
Mặc khải tự nhiên vẫn luôn là hiện tại cho những người vô
thần, cho những người đã nhận biết Tuyệt Đối nhưng không sống trong một
tôn giáo nào, cũng như cho tất cả mọi người kể cả những người sống trong
các tôn giáo ngoài kitô và trong Kitô giáo. Bổn phận chúng ta, tất cả
mọi người không trừ ai, đều phải đáp trả mặc khải này của Thiên Chúa, nếu
không chúng ta sẽ mắc lỗi. Trong cuộc sống thường ngày chúng ta đã thấy bao
nhiêu người tự xưng là vô thần đã sống đáp trả những biểu tượng hay dấu
chỉ tự nhiên của thực tại vô hình một cách rất chu đáo tốt đẹp; nghĩa là
họ đã đang sống đức tin, đang biểu lộ đời sống đức tin bằng chính cuộc sống
hằng ngày mà họ không biết, và như vậy họ vẫn được cứu độ.
Sau đây, chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn về lựa chọn căn
bản- một lựa chọn quyết định theo đường lành hay đường dữ, theo sự ác
hay sự thiện, theo đường tà hay nẻo chính, theo Thiên Chúa hay ma quỷ.
Lựa chọn căn bản xảy ra khi một người đến tuổi khôn, có
thể phân biệt sự thiện sự ác, có khả năng suy nghĩ và quyết định khi có
dịp, và chọn sự thiện vì chính sự thiện chứ không phải vì một lý do nào khác.
Không phải tất cả mọi hành vi tự do của con người đều là lựa chọn căn bản.
Lựa chọn căn bản chi phối hầu như tất cả những hành vi luân lý của người
đó, trừ phi nó được chọn lựa ngược lại.
Chẳng hạn, một em bé ra khỏi tình trạng trẻ con chưa biết
gì bằng hành vi tự do đầu tiên của mình, khi dịp đến em quyết định không
nói dối vì đó là điều xấu chứ không phải vì cha mẹ không muốn,
cũng không phải vì em sợ bị phạt hoặc sợ sẽ bị phát giác là đã nói dối;
nghĩa là em quyết định bằng một chọn lựa đầu tiên trong đời cách tự do
hoàn toàn, không làm điều xấu vì nó là điều xấu. Và cả cuộc đời em sẽ được chi
phối bởi lựa chọn căn bản đầu tiên này, trừ phi nó được thay đổi bằng một lựa
chọn tương tự[14].
Một em bé sống trong gia đình ngoài kitô giáo hoặc không
tôn giáo, em không biết Thiên Chúa cách rõ ràng, nhưng khi làm
cuộc lựa chọn căn bản bằng việc làm điều thiện vì đó là điều thiện
chứ không vì một lý do nào khác, em đã chọn Thiên Chúa qua hành vi
lựa chọn điều thiện này. Giả sử như sau này em trở thành kitô hữu, thì
hành vi đức tin đầu tiên sẽ hàm chứa và làm mới lại lựa chọn ban đầu; như
vậy có thể nói, lựa chọn luân lý và lựa chọn thần học tự nền tảng là một;
cái khác là đi từ mặc nhiên đến minh nhiên.
Với một em bé sinh trong một gia đình Kitô giáo, em được
nghe nói về Thiên Chúa, biết Thiên Chúa. Hành vi tự do đầu tiên của em là
sự lựa chọn Thiên Chúa. Hành vi tự do lựa chọn đầu tiên này cũng hàm chứa
lựa chọn sự thiện[15].
Lựa chọn căn bản cũng có thể là lựa chọn điều dữ! Và nếu
vậy suốt cuộc đời của người này vẫn chịu ảnh hưởng của quyết định lựa chọn
này, trừ phi người đó chọn lựa lại.
Bằng hành vi lựa chọn căn bản- lựa chọn điều thiện- một
người có thể lãnh nhận ơn công chính hóa, dù người đó sống trong tôn giáo
ngoài ki-tô hay trong một gia đình không nhận biết Thiên Chúa. Lựa chọn căn bản
là một hành vi tin nhận hoặc từ chối Thiên Chúa được thể hiện qua hành
động của mình, một cách dứt khoát.
Nếu một người chọn sự thiện vì đó là sự thiện, thì
ngay cả khi họ chưa tuyên xưng nhận biết Thiên Chúa họ đã biểu lộ đức tin
mặc nhiên vào Thiên Chúa rồi. Và nếu họ chết trong tình trạng này, họ được cứu
độ. Những quyết định và hành động trong cuộc sống thường ngày là
những diễn tả đức tin của mình!
Đức Piô XII trong bài diễn văn nói với các “cô đỡ”
ngày 29.10.1951, đã nói:
“một hành vi tình yêu có thể
đủ cho một người trưởng thành nhận lãnh ân sủng thánh hóa và bù lại sự
không có bí tích thanh tẩy”[16].
Nếu vậy, trong đời sống hằng
ngày của một người, có bao nhiêu dịp để nhận lãnh hồng ân cứu độ của Thiên
Chúa?!
“Dù xây chín đợt
phù đồ,
không bằng làm phúc cứu cho một người”.
Những người nghèo luôn có
bên chúng ta, những người thiếu thốn đau khổ về tinh thần đầy dẫy trên mặt
đất này, như vậy có rất nhiều dịp cho con người thực thi bác ái để nhận
lãnh ơn cứu độ!
Nếu người nào đó làm một hành vi bác ái vì đó là điều
tốt điều thiện điều nên làm và phải làm, thì người đó lập lại
chọn lựa căn bản mình đã chọn trước. Qua việc sống theo tiếng lương
tâm- tiếng Thiên Chúa nói qua lý trí này, người đó biểu lộ đức tin vào
Thiên Chúa cho dù họ không nhận biết Ngài cách rõ ràng; và rồi qua
hành vi tin vào Thiên Chúa cách minh nhiên hay ngay cả mặc nhiên này, ân
sủng thánh hóa có thể được ban cho người đó!
Trong đời sống gia đình, tương quan giữa cha mẹ, vợ chồng
con cái đều phải là tương quan tình yêu; mà tình yêu không bao giờ thiếu
những hy sinh triền miên phát xuất từ sự cảm thông, tha thứ, quảng đại
chịu đựng trong cuộc sống giao tiếp hằng ngày. Nếu chúng ta sống đời gia
đình trong cuộc sống hằng ngày cách ý thức và tự do, sống tình yêu vì tình
yêu, thì chúng ta cũng lãnh nhận ân sủng của Thiên Chúa cho dù có thể
chúng ta chưa nhận biết Ngài, vì “Thiên Chúa là tình yêu, và ai sống trong tình
yêu là sống trong Thiên Chúa” (1Yn.4, 8.16).
Những đức tính tốt của bao người chúng ta gặp trong cuộc
sống thường ngày, như sự thật thà, trung thực, thành tín, quảng đại, yêu
thương, có thể trở thành những tấm gương, thôi thúc chúng ta sống tốt hơn,
thành tín trung thực hơn, quảng đại hơn, yêu thương hơn! Dưới một
khía cạnh nào đó, chúng là những biểu tượng, dấu chỉ của thực tại vô hằng
mà qua đó Thiên Chúa dùng để ban ơn cho những người không sống trong bất
cứ một tôn giáo nào hoặc ngay cả những người chưa nhận biết Thiên Chúa.
Tóm lại, nếu một người chọn “điều
tốt” cho tất cả cuộc sống, hoặc trong cuộc sống hằng ngày họ sống ăn ngay
ở lành theo tiếng lương tâm, thì Thiên Chúa vui lòng ban ân sủng công
chính hóa cho họ.
Những phong cảnh thiên
nhiên, những người tốt việc tốt ta gặp trong cuộc sống hằng ngày như sự
trung tín thật thà, lòng quảng đại, tình yêu dành cho nhau trong gia đình
hay nơi bạn bè hay nơi nam nữ, đều là biểu tượng, dấu chỉ qua đó Thiên Chúa mặc
khải và ban ơn cho con người, ngay cả cho những người chưa nhận biết Ngài cách
minh nhiên.
Mọi tín hữu của bất
cứ tôn giáo nào, ngay cả Kitô giáo, cũng đều phải sống tốt và vâng
phục tiếng lương tâm, đáp trả những điều Thượng Đế nói với mình qua các
biểu tượng tự nhiên, như tình yêu giữa con người với nhau, tình yêu giữa
vợ chồng con cái, lòng chân thành của con người mà chúng ta gặp trong cuộc
sống hằng ngày! Tín hữu của bất cứ tôn giáo nào cố tình không đáp trả
những “mặc khải qua các biểu tượng tự nhiên” này, e rằng họ cũng không đáp
trả mặc khải qua các biểu tượng nơi tôn giáo họ!
Người chưa biết Thiên Chúa hoặc không sống trong một tôn
giáo, không có điều mà các tín hữu của mọi tôn giáo có: những điều phải
tin nhận được diễn tả qua các biểu tượng[17].
Qua những biểu tín này, tín hữu có thể gặp gỡ Tuyệt Đối; rồi qua các nghi lễ
xét như cách diễn tả hữu hình của đức tin, tín hữu dâng lên Thượng Đế
những lời ngợi khen cùng tấm lòng tôn kính bái thờ; và qua những dấu chỉ
hữu hình này, Thiên Chúa sẵn lòng biểu lộ tình yêu của Ngài đối với họ, hoặc
ban cho họ ân sủng thánh hóa, hoặc ban cho họ những ân đặc biệt trong cuộc
sống, như ơn được bền đỗ, ơn dễ dàng sống tốt hơn, sẵn sàng đáp trả mọi “mặc
khải” qua những biểu tượng tự nhiên và đặc biệt trong cuộc sống hằng ngày.
Một điều khác cần ý thức khi nói đến các biểu tượng nơi
mọi tôn giáo: các biểu tượng- nếu không là biểu tượng thực như đức Yêsu-
đều là dấu chỉ của thực tại vô hình, nên không trùng khít với thực tại; nó
chỉ là dấu chỉ, nên nó vừa tỏ lộ Thực Tại nhưng lại vừa che dấu thực tại[18].
Nếu coi những biểu tượng này là thực tại, là người ta tôn thờ ngẫu tượng;
mệnh lệnh cấm làm hình tượng Thiên Chúa Yavê trong Cựu Ước, là cấm theo
nghĩa này!
Các biểu tượng có tính cách hàm hồ- trừ biểu tượng thực
là đức Yêsu Kitô- nên nếu không được hiểu đúng đắn sẽ che dấu thực tại,
tuy vậy người ta cũng không thể bỏ biểu tượng vì nếu vậy thực tại không được
diễn tả và không thể được hiểu; do vậy người ta đã dùng cách phủ định, để cố
gắng diễn tả và lại gần thực tại hơn[19];
hiểu trong nghĩa này, một cao tăng nói: “ngón tay chỉ, hãy nhìn điều ngón
tay chỉ chứ đừng nhìn ngón tay”, một danh sĩ đạo Lão dạy “bè để qua sông, qua
sông hãy bỏ bè”.
Thực Tại Tuyệt Đối có nhiều tên gọi như Trời, Thiên Chúa,
Thượng Đế, Đấng Tối Cao, Tuyệt Đối, v.v., nhưng mỗi tên gọi chỉ có thể
diễn tả một khía cạnh nào đó của thực tại. Những tên gọi này cũng được coi như
những biểu tượng của Tuyệt Đối!
Các biểu tượng cũng không có giá trị như nhau; có biểu
tượng thích hợp hơn để diễn tả thực tại thiêng liêng nhưng cũng có những
biểu tượng diễn tả kém, có biểu tượng thích hợp cho nhóm người này nhưng không
thích hợp cho nhóm khác, có biểu tượng thích hợp cho thời này nhưng không thích
hợp cho thời khác[20]. Đó
là lý do tại sao có hiện tượng biểu tượng mai một với thời gian, và cũng
có những biểu tượng mới xuất hiện[21].
Với những lưu ý trên, chúng ta đi vào những biểu tượng
nơi các tôn giáo ngoài kitô. Chúng ta chỉ đưa vài nét đại cương,
vì để làm điều này cách thích đáng, chúng ta phải nghiên cứu kỹ lưỡng và
thấu đáo hơn.
Với tín đồ đạo Phật, đức Phật là một biểu tượng, và hơn
nữa là một biểu tượng lịch sử[22].
Đức Phật là biểu tượng người tu hành đắc đạo, giác ngộ, đã đạt cõi phúc. Đức
Phật không nhận mình là Tuyệt Đối, và tín đồ Phật giáo cũng không tôn thờ Đức
Phật như Tuyệt Đối. Đức Phật nói: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật
sẽ thành; hết thảy mọi loài miễn là có cảm giác hay hiểu biết, đều sẽ
thành Phật trong một mai sau”[23].
Vì có những học trò lầm lẫn coi Đức Phật cũng như tượng
Phật là tuyệt đối, nên một vị tổ sư trong đạo, muốn phá trừ thành kiến
chật hẹp của học trò, đã chẻ tượng Phật ra cho vào lửa làm củi[24].
Với tín đồ Phật giáo, cây bồ đề cũng là biểu tượng
của sự giác ngộ. Vì vậy Phật tử không cầu xin ân huệ vật chất hay tinh thần khi
đảnh lễ Phật mà chỉ bày tỏ lòng tôn kính ngưỡng mộ lý tưởng siêu việt mà
bức tượng tiêu biểu. Phật tử cũng đảnh lễ cây bồ đề, không phải để tỏ lòng tôn
sùng thờ lậy cái cây, mà xem đó là tượng trưng của sự giác ngộ. Dầu có
nhiều nghi thức lễ bái trong các buổi lễ, tín đồ Phật giáo không tôn sùng
Đức Phật như một thần linh[25].
Khi đứng trước tượng Phật hay dưới gốc bồ đề, phật tử nhớ
lại vị thầy đi trước đã được giải thoát, đã giác ngộ, đã đạt hạnh phúc;
phật tử cũng nhớ lại con đường đức Phật đã đi, cũng như khả thể thành phật
của mỗi người; và có thể nhờ đó phật tử ước muốn sống tốt hơn, muốn sống
từ bi hỷ xả hơn, muốn thực thi hành vi bác ái hơn; nghĩa là, muốn bắt chước Đức
Phật và mong ước được giải thoát, được giác ngộ, được hạnh phúc.
Khi hành lễ, bái lạy, xá hương, phật tử cũng có tâm tình
được nên giống Phật, có tâm tình ao ước giải thoát và được hạnh phúc miên
trường.
Trong đạo Phật còn có những biểu tượng khác nữa, nhưng
hiện tại với giới hạn của bài cũng như với khả năng, không tiện đề cập
tới. Những điều được nói ở đây về Đức Phật xét như biểu tượng, qua đó
những người Phật giáo có thể gặp gỡ Thực tại Tuyệt Đối, cũng đúng cho các
biểu tượng tương tự nơi các tôn giáo ngoài kitô khác.
Qua những biểu tượng trong các tôn giáo ngoài kitô, tín
hữu vượt qua những dấu chỉ khả giác để vươn tới thực tại vô hình, và họ
có thể được gặp gỡ thực tại vô hình; qua ngôn ngữ biểu tượng này họ
hướng lòng lên những sự thuộc về thế giới khác, về Tuyệt Đối; họ muốn sống
tốt hơn, muốn trở thành con người toàn diện hơn! Trước những điều này
chúng ta phải chân nhận Thiên Chúa đã và đang hoạt động, đã và đang
ban ân sủng qua các biểu tượng, vì tất cả điều tốt đều đến từ Thiên Chúa[26].
Kierkegaard cho rằng “lời cầu nguyện cũng có thể là không
chân thực khi cầu nguyện với Thiên Chúa chân thực, nhưng người ta cũng có
thể cầu nguyện trong chân lý mặc dù người ta dâng lời cầu nguyện trước một
“ngẫu tượng””[27]. Một điều
chúng ta nên biết rõ, nếu một biểu tượng không là biểu tượng thực, mà
người ta coi biểu tượng đó là Thực Tại, biểu tượng đó trở thành ngẫu
tượng. Điều này đúng cả cho những biểu tượng trong Kitô giáo; chính vì vậy
Yavê Thiên Chúa ra lệnh cho con dân Israel không được làm hình tượng Yavê
để thờ (Tl.4, 15-20). Nếu một người ngoại, họ nhìn các biểu tượng như một biểu
tượng, nghĩa là như dấu chỉ của thực tại vô hình, thì biểu tượng đó không
là ngẫu tượng đối với người ngoại này. Nếu hiểu như vậy chúng ta có thể
đồng ý với Raymond Panikkar và Paradkar cho rằng “người Ấn giáo được cứu bởi Đức Kitô nhưng qua các bí tích của Ấn
giáo”[28].
Tóm lại, niềm tin của những người
sống trong các tôn giáo ngoài kitô được diễn tả qua các biểu tượng nơi các
tôn giáo của họ; khi họ nghĩ hay nhìn tới những biểu tượng này, hoặc khi
họ đáp trả bằng niềm tin được biểu lộ qua những hành vi tôn giáo như
cúng tế bái lạy, họ có thể nhận lãnh ân sủng cứu độ của Thiên Chúa, cũng
như họ có thể được gặp gỡ Thiên Chúa như Thực Tại của biểu tượng tôn giáo
họ sống, Đấng mà họ không gọi cùng một tên với kitô hữu.
Bí tích là một từ ngữ đa nghĩa,
·
nó dùng để chỉ bảy “dấu
chỉ hữu hiệu của ân sủng” của Giáo Hội Công Giáo (nghĩa là bảy bí tích
theo nghĩa vẫn được dùng);
·
nó cũng được dùng với
nghĩa dấu chỉ của “thực tại vô hình” như “Đức Kitô là bí tích nguồn” và
“Giáo Hội là bí tích nguyên thủy”[29];
·
nó cũng được dùng,
đặc biệt ở đây, để chỉ những biểu tượng, tức là dấu chỉ của thực tại vô
hình, trong các tôn giáo ngoài kitô.
Một số tác giả, chẳng hạn như Karl Rahner, đã coi các bí
tích Kitô giáo là những biểu tượng thực[30];
đức Kitô là biểu tượng thực uyên nguyên, vì Ngài vừa là biểu tượng vừa là
thực tại của biểu tượng. Như vậy, biểu
tượng được gọi là bí tích theo nghĩa rộng; và chúng ta có thể gọi các biểu
tượng ngoài kitô là bí tích của các tôn giáo ngoài kitô, và bí tích của
Giáo Hội Công Giáo là biểu tượng thực.
Để thấy tương quan dị đồng giữa bí tích Công Giáo và bí
tích các tôn giáo ngoài kitô, chúng ta sẽ xét những đặc điểm của bí tích Công
giáo và sau đó của các bí tích ngoài kitô giáo.
K. Rahner định nghĩa bí tích là lời
của Đức Kitô đặt nơi miệng Giáo Hội, và Lời này sinh ân sủng do sự[31].
Quan niệm “bí tích là hữu hiệu” này bắt nguồn từ những suy tư về Lời Chúa
của K. Rahner. Ngài cho rằng:
·
Lời Chúa được ký thác
cho Giáo Hội bảo tồn và lưu truyền;
bí
tích cũng là lời, một lời hữu hiệu[32].
Khi nói bí tích là lời hữu hiệu tác giả đã cho thấy dấu chỉ và biểu tượng
cũng thuộc về lời.
Đức Yêsu nói: “Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng Tin Mừng
cho mọi loài thọ tạo. Ai tin cùng chịu Thanh Tẩy thì sẽ được cứu, còn ai
không tin sẽ bị luận tội” (Mc.16, 15-16). Đây là mệnh lệnh của đức Yêsu
sau khi Ngài đã phục sinh! Nhưng ngay khi đức Yêsu bắt đầu rao giảng, Ngài
đã dạy các môn đệ làm thanh tẩy cho dân chúng (Yn.3, 22.26). Vâng lệnh đức
Yêsu Phục Sinh, các tông đồ cũng rao giảng và ban phép thánh tẩy như
trường hợp cho hoạn quan (Cv.8, 38tt), cho gia đình Cornêliô (Cv.10,
47-48).
Chúng ta được thanh tẩy trong đức Yêsu Kitô, chính trong
cái chết của Ngài mà ta được thánh tẩy. Như vậy nhờ thánh tẩy, chúng ta đã được
mai táng làm một với Đức Kitô trong sự chết, ngõ hầu như Đức Kitô nhờ bởi
vinh quang Cha, đã được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước
đi trong đời sống mới (Rm.6, 3-4).
Thanh tẩy là một bí tích, nghĩa là một dấu chỉ ban ân
thánh do việc cử hành dấu chỉ này. Bí tích có hiệu lực do sự (ex epere
eperato) vì:
·
Thiên Chúa là nguyên
nhân chính, nhờ cuộc khổ nạn của Chúa Kitô là nguyên nhân ban công nghiệp
và nhờ đức tin của Giáo Hội[33];
·
Đức Yêsu đã thiết lập
những dấu chỉ này, và Ngài muốn những dấu chỉ này ban ân thánh khi được cử
hành theo ý và nhân danh Ngài.
Bí tích nếu chỉ là một dấu chỉ của thực tại thiêng liêng,
thì cũng có giá trị như những biểu tượng khác, hoặc trong Kitô giáo
hoặc trong các tôn giáo ngoài kitô. Điểm khác biệt giữa bí tích Công Giáo
và các biểu tượng khác trong Giáo Hội Công Giáo và trong các tôn giáo
ngoài kitô, là các bí tích Công giáo có hiệu quả do sự (ex opere operato).
Cái làm cho bí tích Công Giáo có hiệu quả do sự, là
chúng được đức Yêsu Kitô thiết lập, và được thiết lập để ban ân thánh cho
con người. Khi Đức Kitô cử hành những dấu chỉ này, chẳng hạn như Ngài hòa
nước bọt vào bùn và xức cho người mù, thì những dấu chỉ hành vi này ban
cho người mù được sáng và được ơn công chính.
Đức Kitô thiết lập Giáo Hội để tiếp tục công việc cứu thế
của Ngài nơi trần gian, nên khi Giáo Hội cử hành các dấu chỉ này, cũng là
Đức Kitô cử hành, và như vậy các dấu chỉ sinh hiệu quả do chính việc cử hành,
nghĩa là “do sự”.
Suy luận tương tự, để các bí tích sinh hiệu quả do
sự, các bí tích phải được thừa tác viên cử hành đại diện Giáo
Hội nhân danh Đức Kitô; và xét dưới khía cạnh chủ thể lãnh nhận bí tích,
chủ thể này phải hội đủ yếu tố mà nếu đức Kitô làm, đức Kitô đòi hỏi để
Ngài làm những dấu chỉ này; hiểu như vậy, chủ thể lãnh nhận phải hội đủ
yếu tố Giáo Hội quy định xét như đại diện Đức Kitô tại trần gian.
Nơi thừa tác viên cử hành bí tích,
họ phải là người đại
diện Giáo Hội của Đức Kitô,
và do đó phải làm theo ý Đức
Kitô nơi Giáo Hội,
cụ thể thi hành điều Giáo
Hội xét như đại diện của Ngài nơi trần thế dạy phải làm.
Nơi chủ thể lãnh nhận bí tích, thụ nhân phải có đức
tin, và hội đủ những điều kiện Đức Kitô đòi hỏi qua Giáo Hội[34]
đại diện Ngài.
Như đã nói trên, nét đặc trưng
của bí tích kitô giáo là có hiệu quả do sự (ex opere operato), thế còn bí tích
nơi các tôn giáo ngoài kitô? Khi nào hay do đâu các bí tích, biểu tượng
nơi các tôn giáo ngoài kitô ban ân sủng và đặc biệt ân sủng công chính hóa
cho những người sống trong tôn giáo ngoài kitô đó?
Để giải quyết vấn đề này, đầu tiên sẽ xét ân sủng
công chính được ban cho kitô hữu ngoài bí tích, rồi tới những người
dự tòng, và sau đó những tín hữu nơi các tôn giáo ngoài kitô. Chính nhờ
ánh sáng Kitô giáo mà chúng ta có thể giải đáp câu hỏi về đặc tính của bí
tích các tôn giáo ngoài kitô.
Sách giáo lý của Giáo Hội Công Giáo dạy, ta có thể được
lại ân sủng thánh hóa nhờ ăn năn tội cách trọn[35].
Các thần học gia trường phái Thomas cho rằng chỉ có một
con đường để được ơn công chính hóa, và coi bí tích như một yếu tố không
thể thiếu trong tiến trình lãnh ơn công chính hóa này[36].
Còn Duns Scott cho rằng có hai con đường cứu độ khác nhau, đường này độc
lập với đường kia, một là ngoài bí tích như việc thống hối ăn năn cách
trọn, và một khác là bằng bí tích phát sinh ơn công chính do sự (ex opere
operato), nhưng không phải con đường thứ nhất làm cho việc lãnh nhận bí
tích thành dư thừa vì việc này dựa vào quyền Thiên Chúa theo đó ý hướng
thú tội là yếu tố không thể miễn trừ của tất cả hối nhân đích thực[37].
Theo Duns Scott việc có hai con đường công chính hóa cho tội nhân, là một
dấu chỉ cho thấy lòng nhân từ của Thiên Chúa, hơn là chỉ có một con đường[38].
Cũng theo ông, con đường bí tích là con đường dễ hơn con đường kia[39].
Với K. Rahner không có hai con đường cứu độ nhưng chỉ có
một con đường cứu độ và như vậy không thể đặt vấn đề nên theo con đường
này hay theo con đường kia. Theo ông, có hai thời điểm chứ không phải hai
đường của cùng một biến cố cứu độ[40]:
tương tự như “Lời duy nhất có tính cứu độ và hữu hiệu của Thiên Chúa” có
một lịch sử nhưng có những thời điểm khác nhau, mỗi thời điểm có giá trị
tương ứng với toàn thể và thời điểm sau không làm thời điểm trước mất giá
trị, thì cũng vậy biến cố cứu độ nơi mỗi cá nhân [41].
Để lãnh nhận bí tích, để bí tích có thể sinh hiệu
quả do sự cho thụ nhân, chủ thể lãnh nhận phải hội đủ những điều kiện do
Giáo Hội đại diện Chúa Kitô quy định. Chẳng hạn nơi bí tích hòa giải, để
có thể lãnh nhận ân sủng công chính hóa sau khi phạm tội, thụ nhân phải có
lòng thống hối; nếu thiếu lòng thống hối này, bí tích không sinh hiệu quả,
nghĩa là không ban ơn công chính hóa cho họ. Như vậy ngay nơi bí tích, yếu tố chủ thể lãnh nhận cũng rất quan
trọng. “Thiên Chúa đã sinh ta chúng ta không hỏi ý kiến chúng ta
nhưng Ngài không thể cứu độ chúng ta nếu chúng ta không đồng ý”; chính yếu
tố chủ thể (ex opere operantis) làm cho chủ thể được ân sủng công chính
hóa[42].
Khi một kitô hữu lãnh nhận ân sủng công chính hóa trước
khi lãnh nhận bí tích, không hàm chứa rằng việc lãnh nhận bí tích là dư
thừa hoặc không cần thiết, bởi vì các bí tích là biểu lộ của đức tin[43].
Hành vi thống hối đã là tác động của ân sủng, và nó không chỉ thuần túy là
thái độ nội tâm nhưng còn được biểu lộ ra bên ngoài qua việc quỳ gối cầu
nguyện, nghĩa là, nó đã được diễn tả qua hành động[44].
Việc lãnh nhận ân sủng công chính ngoài bí tích, cũng vẫn là lãnh nhận ân
sủng này trong Giáo Hội; và nếu xét chủ thể lãnh nhận như thành phần của
Giáo Hội thì hậu quả cũng được biểu lộ nơi Giáo Hội, cụ thể nơi thụ nhân
lãnh nhận ân sủng, và cao điểm là lãnh nhận bí tích[45].
Các bí tích ban ân sủng “do sự”; còn trường hợp ân sủng
được ban “do nhân”, là ân sủng được ban nhờ thái độ của thụ nhân; có thái
độ này, là nhờ các biểu tượng ngoài bí tích; và thái độ này cũng được diễn
tả qua những hành vi biểu tượng như cầu nguyện, làm việc bác ái.
Do sự khác do nhân ở chỗ, cũng tương tự như trước
khi đức Yêsu Kitô xuất hiện, con người cũng được ân sủng thánh hóa, cũng
được cứu độ nhưng con người vẫn phải chờ biến cố đức Yêsu dù họ không
biết, và chỉ với biến cố đức Yêsu Kitô con người mới biết rõ mình đã được
cứu độ và được cứu độ nhờ đức Yêsu Kitô; con người có thể được ơn công
chính hóa trước khi lãnh nhận bí tích nhưng con người vẫn chưa biết rõ mình
được điều này, và chỉ khi lãnh nhận bí tích, người ta mới biết rõ mình đã
được công chính hóa[46].
Ân sủng của Thiên Chúa đã hoạt động nơi con người
khi lãnh nhận bí tích; và tùy thuộc thái độ của thụ nhân, ân sủng còn được
biểu lộ cách hữu hình ra bên ngoài, và người lãnh nhận bí tích có sự chắc
chắn chủ quan lẫn khách quan về ân sủng mình nhận được. Còn khi người
ta nhận lãnh ơn công chính ngoài bí tích[47],
ân sủng của Thiên Chúa cũng hoạt động nơi người ấy, giúp người ấy chuẩn bị
lãnh nhận ân sủng công chính hóa, và chính Thiên Chúa ban ân sủng công
chính hóa khi Ngài thấy được, và rồi ân sủng này cũng được biểu lộ ra qua
những dấu chỉ biểu tượng bên ngoài. Người nhận lãnh ân sủng thánh
hóa ngoài bí tích, có thể có sự chắc chắn chủ quan nhưng sự chắc chắn
này có thể không hoàn toàn.
Một người lãnh nhận ân sủng công chính ngoài bí tích hay
đúng hơn là trước bí tích, là do lòng thương xót nhân từ của Thiên Chúa
và nhờ thái độ thống hối được biểu lộ qua việc đọc kinh cầu nguyện, công
tác bác ái. Chúng ta dùng từ ngữ “do nhân” (ex opere operantis) để chỉ đặc
tính trường hợp được ân sủng công chính ngoài hoặc trước bí tích.
Người dự tòng có thể đã được ân sủng công chính hóa
trước khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội do thái độ của họ (ex
opere operantis), và như vậy nếu họ chết trước khi lãnh nhận bí
tích rửa tội, họ được cứu độ. Các nhà thần học và ngay cả huấn quyền giải
thích việc lãnh nhận ân sủng công chính hóa trưóc khi lãnh bí tích rửa tội
bằng phép rửa bởi Thánh Thần, bằng lòng ao ước lãnh bí tích (votum
sacramenti), bằng hành vi bác ái.
Trẻ con chết trước khi lãnh nhận bí tích rửa tội, dù cho
cha mẹ là kitô hữu hay lương dân, nếu còn mắc tội tổ tông các em
cũng không được hưởng tôn nhan Chúa, nhưng chắc chắn “Thiên Chúa
không thể nào để cho bao nhiêu trẻ con phải hư mất đời đời”[48]. Như
vậy phải chăng Thiên Chúa nhân từ tha thứ tội tổ tông cho các em vì đức
tin của Giáo Hội?
Vấn đề này liên hệ đến quan niệm về tội tổ tông, về tiến
trình thành người của thai nhi, về lòng nhân từ của Thiên Chúa. Những
trẻ chết khi Hêrôđê muốn giết hài nhi Yêsu, được gọi là các thánh anh hài;
các em nhỏ được rửa tội trong gia đình Công giáo nhờ đức tin của cha mẹ, được
lên thiên đàng; còn các em nhỏ khác thì sao? đức tin của Giáo Hội có tác
động đến các em không? Thiên Chúa có thua lòng nhân từ của chúng ta không, nếu
chỉ là người mà chúng ta còn nghĩ rằng các em đó phải được hưởng kiến Thiên
Chúa?
Trong quan niệm nhân học cho rằng ơn gọi con
người là được sống hạnh phúc với Thiên Chúa, ngay cả trong tình trạng sa
ngã hiện tại? Và nếu Giáo Hội khẳng định những người chưa rửa tội có
thể được cứu độ khi họ sống theo lương tâm ăn ở ngay lành, còn các em bé
và các thai nhi- các em chưa thể biểu lộ đức tin của mình qua hành động,
đó không là lỗi tại các em- như vậy chúng ta có lý để cho rằng các em có thể
được cứu độ. Các em được cứu độ vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng nhân từ và
công bằng, vì Đức Kitô đã chết cho tất cả mọi người, kể cả các
thai nhi trong bụng mẹ. Nếu quả các em được cứu độ, các em được cứu
độ không cần nhận lãnh bí tích và cũng không cần qua biểu tượng nữa, dù là
biểu tượng tự nhiên.
Kitô hữu tin rằng những tín hữu Do Thái giáo thời
Cựu Ước được cứu độ nhờ lòng tin vào Thiên Chúa (Kn.15, 6), nhờ việc
thực thi lề luật như cách thể hiện đức tin vào Thiên Chúa, nhờ phép cắt bì
như bí tích xóa tội nguyên tổ[49]
cũng như nhờ các bí tích khác[50],
và đặc biệt vẫn nhờ đức Yêsu Kitô và trong Giáo Hội.
Cũng như người Công giáo được lại ân sủng thánh hóa sau
phạm tội nhờ lãnh bí tích hòa giải hoặc nhờ lòng thống hối thật, tín hữu
Do Thái giáo sau khi cắt bì mà phạm tội lãnh nhận ân sủng thánh hóa nhờ nghi
lễ xá tội trong ngày lễ xá tội hằng năm (Lv.16, 33) hoặc nhờ các nghi lễ
hay qua các biểu tượng khác.
Thiên Chúa cho dân Israel từ lưu đày trở về, đó là
biểu hiệu Thiên Chúa đã tha thứ tội lỗi vì dân đã thật tình sám hối (Bar.1, 15-
3, 8).
Tiên tri Natan và câu chuyện dụ ngôn của tiên tri là
lời biểu tượng để vua David nhận biết lỗi lầm và thống hối; và chính lòng thống
hối đã làm Thiên Chúa tha thứ tội lỗi của David (2Sam.11, 13).
Những lời của tiên tri Natan và biến cố lưu đày của
dân Israel, cho thấy Thiên Chúa đã ban ân sủng qua lời biểu tượng
hoặc qua biến cố biểu tượng. Qua những biểu tượng này, David nhận ra
lỗi lầm của mình để thống hối, và biết Thiên Chúa đã tha tội cho mình qua
lời tiên tri; Qua biến cố lưu đày, Thiên Chúa đã giúp dân nhận biết lỗi lầm, và
như vậy biến cố lưu đày trở thành phương tiện giúp dân thống hối và đón
nhận ân sủng được ban; biến cố được trở về quê hương trở thành biểu tượng
cho thấy Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho dân.
Những biến cố, biểu tượng, và ân sủng, được ban cho dân
Israel; và cũng tương tự vậy được ban cho người ngoài Do thái giáo,
và rồi cho những người sống trong tôn giáo ngoài kitô ngày nay. Những biểu
tượng này tuy không có tính ban ân sủng do sự (ex opere operato), nhưng
cũng là phương tiện để Thiên Chúa ban ân sủng cho những tâm hồn xứng đáng
(ex opere operantis).
Tương tự như kitô hữu nhận lãnh ân sủng công chính hóa
ngoài bí tích, và tín hữu Do thái giáo nhận lãnh ân sủng công chính hóa
trong nhiệm cục cứu độ tiền ki-tô giáo, ân sủng Thiên Chúa tác động nơi
những người sống trong các tôn giáo ngoài kitô qua các biểu tượng nơi các tôn giáo họ sống hoặc qua những biểu
tượng tự nhiên, để họ có tâm tình thống hối và thái độ xứng hợp, hầu
Thiên Chúa ban ân sủng công chính hóa cho họ khi Ngài muốn.
Khác với bí tích kitô giáo, vì là dấu chỉ được đức Yêsu
Kitô thiết lập và Ngài muốn những biểu tượng này ban ân sủng do việc cử hành
(ex opere operato), các biểu tượng nơi các tôn giáo ngoài kitô là phương
tiện ban ân sủng cho những người sống trong các tôn giáo này tùy thuộc
thái độ của họ (ex opere operantis).
Các biểu tượng của các tôn giáo ngoài kitô ban
ân sủng cho những người sống trong các tôn giáo này tùy ở thái độ của
họ (ex opere operantis), tùy Thiên Chúa theo ý muốn và dự định của Ngài (ex
divina decreta eterna).
Những người lãnh nhận ơn công chính hóa ngoài bí tích
kitô giáo, có thể có sự xác tín chủ quan về ân sủng nhận được; và sự xác tín
khách quan có thể có khi ân sủng công chính hóa được biểu lộ ra bên
ngoài qua các biểu tượng, chẳng hạn hành vi bác ái, đời sống lương thiện,
yêu mến tha nhân đồng loại, những cảm nghiệm về Tuyệt Đối.
Trong nhãn quan kitô và nhân bản không bị lệch lạc,
nhận lãnh ân sủng công chính hóa qua bí tích kitô giáo là con đường
đơn sơ và dễ dàng nhất, và thụ nhân có sự xác tín chủ quan lẫn khách quan
về ân sủng mình được nhận.
Đối với kitô hữu, truyền giáo là
loan báo cho muôn dân biết Thiên Chúa yêu thương con người, và Ngài muốn
cho tất cả được thông dự sự sống vĩnh cửu của Ngài.
Thiên Chúa yêu thương con người đến độ ban Con Một
của Ngài cho con người, tức là đức Yêsu Kitô (Yn.3, 16). Với biến cố Yêsu Kitô,
tất cả được biến đổi. Con người, nhờ đức Yêsu Kitô, đã thấy rõ ý nghĩa cuộc
sống của mình, biết rằng mình được Thiên Chúa yêu thương, biết rằng mình sẽ
được cứu độ, sẽ được thông phần hạnh phúc vĩnh cửu của Thiên Chúa
nếu mình tin vào đức Yêsu Kitô (Yn.3, 16).
Truyền giáo là loan báo tin mừmg đức Yêsu Kitô. Đức Yêsu Kitô chính là Tin Mừng cho
tất cả nhân loại; không có Ngài, không có ơn cứu độ; và có Ngài tất cả
được đổi mới, tất cả được hạnh phúc, tất cả được tham dự sự sống Thiên
Chúa.
Truyền giáo có thực sự cần thiết không khi các tôn giáo
ngoài kitô cũng có những biểu tượng, qua đó Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ
cho những người thuộc tôn giáo đó?
Câu trả lời thật đơn sơ rõ ràng: dù các tôn giáo
ngoài kitô có là phương tiện cứu độ cho những người sống trong đó, dù các
tôn giáo ngoài kitô có những biểu tượng qua đó Thiên Chúa vẫn dùng để ban
ân sủng cứu độ cho họ, thì việc truyền giáo “loan báo đức Yêsu cho những
người sống trong các tôn giáo ngoài kitô” là một chuyện rất cần thiết và không
thể miễn trừ. Sau đây là những lý do buộc các kitô hữu phải truyền giáo.
Kitô hữu là người có niềm vui lớn lao vô cùng: “Đức Yêsu
là Thiên Chúa nhập thể làm người vì yêu thương chúng ta, Ngài đã chết
và sống lại để chúng ta cũng được sống lại với Ngài, Ngài muốn cho con
người được thông chia sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa”. Khi một người
có niềm vui, họ thường đem chia sẻ với những người xung quanh, với
những người thân, với những người họ yêu mến. Như vậy nếu một kitô hữu xác
tín niềm tin của mình, chắc chắn họ phải chia sẻ Tin Mừng này cho những
người họ yêu, cho những người thân, cho những người xung quanh họ.
Nếu họ không chia sẻ Tin này, thì e rằng đây không phải là một Tin Mừng
thật, hoặc họ không có tình yêu đối với những người xung quanh và với
những người thân, và nếu vậy họ không giống Thiên Chúa là Đấng yêu thương
mọi người và muốn chia sẻ niềm vui, sự sống của Ngài với con người.
Đức Yêsu Kitô sau phục sinh, đã truyền cho các môn
đệ mệnh lệnh “các con hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng Tin Mừng cho
mọi loài thụ tạo. Ai tin cùng chịu thanh tẩy sẽ được cứu, còn ai không tin
sẽ bị luận tội” (Mc.16, 15-16//).
Thánh Thần của đức Yêsu Phục Sinh cũng đã tách riêng Phaolô
và Barnaba để sai các ngài đi rao giảng tin mừng đức Yêsu cho người Do
Thái, và sau đó cho dân ngoại (Cv.13, 2.46). Phaolô đã xác tín ơn gọi rao
giảng Tin Mừng của Ngài: “khốn cho tôi, nếu tôn không rao giảng Tin Mừng “
(1Cor.9, 16).
Mệnh lệnh đi rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc, làm
thành tính công giáo của Giáo Hội: “Vậy các con hãy đi thâu nạp môn đồ
khắp muôn dân, thanh tẩy chúng nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, dạy chúng
tuân giữ hết mọi điều thầy đã truyền cho các con” (Mt.28,18-19). Giáo Hội
đã nhận lãnh sứ mạng như đức Yêsu nhận lãnh từ Cha: “như Cha đã sai Thầy,
Thầy cũng sai các con” (Yn.20, 21).
Đức Yêsu Kitô là Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên
Chúa và con người (1Tm.2, 5), Ngài là Lời Thiên Chúa nhập thể
làm người (Yn.1, 14), nên Ngài là bí tích nguồn ban ân sủng cho
con người (Yn.1, 18). Giáo Hội, được Thánh Thần đức Yêsu Kitô hướng
dẫn, là bí tích phổ quát ban ơn cứu độ cho con người[51],
cho tất cả mọi người thuộc mọi quốc gia ngôn ngữ. Nếu Giáo Hội không
truyền giáo, Giáo Hội không còn tư cách đại diện Chúa Kitô nữa, không còn
là bí tích phổ quát nữa, và như vậy Giáo Hội không còn là Giáo Hội nữa.
Chúng ta vẫn phải truyền giáo, bởi vì
·
chính trong đức Yêsu
Kitô và nhờ đức Yêsu Kitô mà các tôn giáo ngoài kitô trở thành phương tiện
cứu độ;
·
chính trong Giáo
Hội- ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ- mà ân sủng được ban cho những
người sống trong các tôn giáo ngoài kitô, hay những người không theo một
tôn giáo nào, hoặc ngay cả những người vô tình không tin nhận Thiên Chúa,
dù rằng qua các biểu tượng trong tôn giáo ngoài kitô hoặc qua các biểu tượng tự
nhiên.
·
Hơn nữa, chúng ta cũng
đã thấy ở trên, các tôn giáo ngoài kitô vẫn có những sai lầm vì có những
yếu tố thuần túy con người, vì các tôn giáo ngoài kitô không được Thánh Thần
bảo đảm việc lưu truyền kinh nghiệm với Tuyệt Đối, và vì các biểu tượng
tôn giáo ngoài kitô vẫn có nhiều nét hàm hồ không phản ánh tinh ròng Thực
Tại Vô Hình, và đôi khi còn làm cho con người hiểu sai lệch về Tuyệt Đối.
Truyền giáo không là truyền bá văn hóa Do thái hay Hy lạp
hay tây phương, nhưng là rao giảng tin mừng đức Yêsu Phục Sinh.
Giáo Hội không truyền bá một ý thức hệ với những giải
thích về vũ trụ, Thiên Chúa và con người, nhưng rao giảng tin mừng đức
Yêsu Kitô; như vậy Giáo Hội thích hợp với mọi người và với mọi nền văn hóa
của mọi dân tộc và mọi thời đại.
Giáo Hội là Công Giáo, nên Giáo Hội hòa hợp với mọi
dị biệt của những nền văn hóa khác nhau, nên Giáo Hội phải tìm hiểu cách suy
nghĩ, diễn tả của từng dân tộc, của từng nền văn hóa, để loan báo tin mừng
đức Yêsu Kitô một cách thích đáng, và để mọi người dễ tin nhận hơn.
Hội nhập văn hóa là tìm hiểu cách suy nghĩ và diễn tả của
từng dân tộc, để trình bày tin mừng đức Yêsu Kitô theo cách thức
suy nghĩ và diễn tả của dân tộc đó. Nếu chúng ta không hội nhập văn hóa,
không trình bày Tin Mừng theo văn hóa của dân tộc được rao giảng Tin Mừng, sẽ
làm người ta dễ hiểu lầm Tin Mừng, và hậu qủa là đa số từ chối Tin
Mừng đức Yêsu Kitô.
Đặc biệt với những dân tộc châu Á, có nền văn hóa
rất khác với những nước châu Âu, nếu Tin Mừng không được rao giảng
bằng ngôn ngữ văn hóa các nước châu Á, e rằng không có bao người tiếp nhận
Tin Mừng. Chẳng hạn việc “thờ cúng tổ tiên”, nếu những người Công Giáo làm
cho người Việt Nam nghĩ rằng theo đạo là bất hiếu, phải bỏ ông bà, thì thường
họ không chấp nhận theo đạo; thực sự người Công Giáo tôn kính ông bà cách
khác, chúng ta không bất hiếu, chúng ta vẫn nhớ cầu nguyện cho ông
bà, tổ tiên, cha mẹ chúng ta trong những giờ kinh nguyện; tuy vậy, chúng
ta phải để cho người Việt Nam tôn kính ông bà theo kiểu của họ, thì tin
mừng đức Yêsu Kitô mới dễ được nhiều người chấp nhận; chúng ta chỉ ngăn cản khi
những hành vi tôn kính này đi ngược lại đức tin mà thôi. Người
Công Giáo Việt Nam nói về lòng tôn kính ông bà tổ tiên theo cách
thức, theo nền văn hóa của người Việt Nam; và điều chúng ta nói về lòng
tôn kính tổ tiên cũng đúng cho những vấn đề khác; đó là công tác hội nhập
văn hóa của Giáo Hội khi thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng đức Yêsu Kitô
cho mọi dân tộc.
Giáo hội khẳng định lập trường với công đồng Vatican
II qua tuyên ngôn về các tôn giáo ngoài kitô: “Giáo Hội Công Giáo không hề
phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo ngoài kitô.
Với lòng kính trọng chân thành, Giáo Hội xét thấy những phương thức hành động
và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết kia, tuy rằng có nhiều điểm
khác với chủ trương mà Giáo Hội duy trì, nhưng cũng thường đem lại
ánh sáng của Chân Lý, Chân Lý chiếu soi cho hết mọi người; vì
thế, Giáo Hội khuyến khích con cái mình nhìn nhận, duy trì và cổ
động cho những thiện ích thiêng liêng cũng như luân lý và những
giá trị xã hội văn hóa của các tín đồ thuộc các tôn giáo khác, bằng
con đường đối thoại hợp tác cách thận trọng và bác ái với tín đồ các tôn
giáo ấy mà vẫn là chứng tá của đức tin và đời sống kitô giáo”[52].
Như vậy chúng ta thấy, Giáo Hội chấp nhận những gì chân
thật và tốt lành nơi các tôn giáo ngoài kitô, và cổ võ việc đối thoại.
Việc đối thoại hàm chứa niềm tin rằng các tôn giáo ngoài kitô có những
chân lý, có những điều tốt lành. Vì nếu Giáo Hội nhận rõ các tôn giáo
ngoài kitô là phương tiện của ma quỷ, hoặc là công trình của con người xét
như một thế lực chống lại Thiên Chúa như một số người trong anh em Tin Lành
chủ trương, thì chắc Giáo Hội đã thẳng thắn bài bác và không bao giờ
khuyến khích con cái mình đối thoại cả. Việc đối thoại với các tôn giáo
ngoài kitô hàm chứa phần nào niềm tin rằng các tôn giáo ngoài kitô cũng là
phương tiện Thiên Chúa dùng để cứu độ con người, nếu không việc đối thoại
chỉ là giả hình và thuần túy “ngoại giao”.
Đối thoại với các tôn giáo ngoài kitô là để thấy rõ
những giá trị của tôn giáo ngoài kitô, thấy rõ điều hay điều tốt và cả
những điều không thể dung hợp với đức tin kitô giáo nữa, hiểu biết
hơn về các tôn giáo ngoài kitô, cũng như những biểu tượng đức tin và
những hành vi biểu lộ niềm tin của họ, hiểu biết cách diễn tả thực tại
thiêng liêng theo nền văn hóa của dân tộc theo tôn giáo này, và như vậy
chúng ta có thể trình bày đức Yêsu cho những người theo tôn giáo đó cũng
như cho dân tộc này cách thích hợp hơn.
Việc tìm hiểu các tôn giáo ngoài kitô rất quan trọng
trong việc truyền giáo, trong việc loan báo Tin Mừng đức Yêsu Phục Sinh,
bởi vì khi đã thấy rõ giá trị và ý nghĩa các biểu tượng của các tôn giáo
ngoài kitô cũng như cách diễn tả tâm tình tôn gíáo của dân tộc với nền
văn hóa riêng, chúng ta có thể rao giảng tin mừng đức Yêsu theo những
biểu tượng về thực tại thiêng liêng mà ta đã biết. Nói một cách khác, chúng
ta kitô hóa các biểu tượng[53]
nơi các tôn giáo ngoài kitô nếu có thể được.
Nói về biểu tượng và ân sủng mà
không đề cập tới Thánh Thần là một thiếu sót lớn, bởi vì ân sủng là tình yêu của
Thiên Chúa đối với con người, làm cho con người được nên giống Thiên Chúa.
Thánh Thần là ngôi vị thứ ba của Thiên Chúa, Ngài là “hơi
thở” của Cha và Con, nhiệm xuất từ Cha và Con, là tình yêu giữa Cha và Con.
Ngài được biệt gán cho nhiệm vụ thánh hóa con người và toàn thể vũ trụ! Khi trở
về cùng Cha, Đức Yêsu đã gởi Thánh Thần của Ngài trên các tông đồ và toàn thể
Giáo Hội, để Thánh Thần tiếp tục và hoàn tất chương trình cứu chuộc loài người
của Chúa Cha, được Chúa Con nhập thể thi hành. Có thể nói tất cả những hướng
chiều đi lên với Thiên Chúa của con người, đều là tác động của Thánh Thần.
Ân sủng là tác động của Thiên Chúa nhằm cứu độ con người,
luôn đi trước thái độ và lời đáp trả của con người! Không phải chúng ta
yêu Thiên Chúa trước, nhưng chính Ngài đã yêu chúng ta trước và đã phó mạng
sống mình vì ta (1Yn.4, 19.10). Không ai đến được với Ta nếu Cha Ta không lôi
kéo nó (Yn.6, 44); không ai có thể tuyên xưng Yêsu là Chúa mà không bởi Thánh
Thần (1Cor.12, 3).
Thiên Chúa yêu thương thế gian vô cùng, Ngài muốn cứu độ
tất cả mọi người (1Tm.2, 4), muốn mọi người được nên giống Ngài, được tham dự
sự sống vĩnh cửu của Ngài. Tình yêu của Thiên Chúa chan hòa vũ trụ và tràn ngập
lòng người, và Thánh Thần Tình Yêu luôn luôn hoạt động nơi lòng mỗi người
để lôi kéo họ tới với Thiên Chúa, để họ được cứu độ nhờ Đức Yêsu Kitô. Như
trước khi tạo dựng vũ trụ, Thiên Chúa đã yêu thương từng người chúng ta, cũng
vậy trước khi tình yêu ân sủng được biểu lộ cụ thể, thì Thiên Chúa đã yêu
thương ta trong Thánh Thần. Tình yêu đi trước bí tích, biểu tượng.
Tình yêu là tương quan liên vị nên cần phải được diễn tả
và biểu lộ. Với con người vì là hồn và xác, nên tình yêu cần và phải được diễn
tả qua những dấu chỉ. Thiên Chúa đã biểu lộ tình yêu của Ngài khi ban Con
Một cho loài người (Yn.3, 16); Đức Yêsu Con Thiên Chúa nhập thể, cũng đã chấp
nhận chết nhục nhã trên thập giá để biểu lộ tình yêu của Ngài và của Cha cho
con người; và Đức Yêsu đã thiết lập Giáo Hội như đại diện hữu hình của
Ngài nơi trần gian, để trở thành dấu chỉ cứu độ cho con người, bằng việc loan
báo Lời Chúa và cử hành các biểu tượng ban ân thánh hữu hiệu.
Thánh Thần Thiên Chúa luôn hoạt động khắp nơi và trong
lòng mỗi người, nên tất cả mọi hành vi tốt của con người đều là hành vi siêu
nhiên và có giá trị cứu độ. Mọi hành vi tốt đều là ân sủng của Thiên Chúa[54]. Thánh
Thần hoạt động rất tự do, không bị giới hạn trong những cơ cấu và định chế:
“khí muốn đâu thì thổi, ông nghe được tiếng, nhưng nào có biết từ đâu mà đến
hay lại đi đâu? cũng vậy với mọi kẻ sinh bởi Thần Khí” (Yn.3, 8). Hoạt động của
Thánh Thần nơi con người cũng được biểu lộ ra bên ngoài, chẳng hạn Thánh Thần
đã tỏ lộ hoạt động trong ngày lễ ngũ tuần (Cv.2, 1tt) dù rằng con người, cụ thể
các tông đồ đã nhận lãnh Thánh Thần ngay trong ngày đức Yêsu phục sinh (Yn.20,
22). Như vậy ân sủng, tình yêu của Thiên Chúa được cụ thể hóa, cũng được diễn
tả qua các dấu chỉ biểu tượng.
Tất cả là ân sủng[55].
Hoạt động của Thánh Thần Tình Yêu Thiên Chúa bao phủ tất cả hoàn vũ và tận
trong thâm sâu con người. Chính Thánh Thần tác động để con người vươn lên,
nhận ra những điều tốt lành thiện hảo cũng như những điều không hợp với
bản tính con người, lôi kéo con người đến với Thiên Chúa, và giúp con
người biểu lộ tâm tình của mình qua các biểu tượng, dấu chỉ thực tại
thiêng liêng. Không có gì tốt lành thánh thiện mà ở ngoài Thiên Chúa, mà
lại không được Thánh Thần tác động và hướng dẫn! Những gì tốt lành thánh
thiện, những gì giúp con người vươn lên với Thiên Chúa ngay cả trong các tôn
giáo ngoài kitô, đều là hoa trái của Thánh Thần. Chính Thánh Thần đã giúp
những người sống trong các tôn giáo ngoài kitô gặp gỡ Thực Tại Tuyệt Đối
qua các biểu tượng, thánh hóa và ban cho họ hồng ân vô giá “trở nên đền thờ
Thiên Chúa Ba Ngôi” ngay cả khi họ không ý thức.
TẤT CẢ CHO VINH DANH CHÚA HƠN
Viết xong 20:40' ngày 06.02.1985
Lễ thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo
Art. Articulus Bài
Art. cit. Articulo citato Bài đã dẫn
AUG. Augustinô
DS. DENZINGER-SCHONMETZER, Enchiridion Symbolorum
Definitionum et Declarationum de rebus fidei et morum, HERDER MCMLXIII
Ep. Epistula Thư
E.T. K. RAHNER, Ecrits Théologiques
F.V. Coll. FOI VIVANTE
GH. Vatican II, Hiến Chế Giáo Hội
Ibid. Ibidem Cùng
vậy
LG. Lumen Gentium
Hiến Chế Giáo Hội
NK. Ngoài kitô giáo. Tuyên ngôn của Công Đồng Vatican
II về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài kitô
op. cit. Opere citato Sách đã dẫn
p (pp). Trang
(các trang)
PG. J. P. MIGNE, Patrologiae cursus completus, Series
graeca, PARISIIS 1857 seq.
PL. J. P. MIGNE, Patrologiae cursus completus, Series
prima latina, PARISIIS 1844 sqq.
R. ROUET DE JOURNEL, Enchiridion patristicum, HERDER
MCMLXV
S.T. St.THOMAS, Summa Theologiae
TG. Sắc lệnh Truyền giáo của Công Đồng Vatican II.
·
Trong bài này, ký hiệu Kinh
Thánh dùng theo Cha Nguyễn Thế Thuấn, bản dịch in bởi DÒNG CHÚA CỨU THẾ
1976.
·
Ký hiệu của Công Đồng
Vatican II dùng theo bản dịch của Giáo Hoàng Học Viện ĐALAT- VIỆT NAM
1972.
Ở đây chỉ ghi những sách hoặc những
bài báo đã được trích dẫn.
A. BALCHAND, The salvific value of non-christian religions
according to Asian Christian Theologians’ Writtings in Asian
Published Theological Journals 1965-1970. EAPI-MANILA 1973.
CH.
BAUMGARTNER, La Grâce du Christ, Coll. LE MYSTÈRE CHRÉTIEN, DESCLÉE- BELGIUM
1963
C.
BIHLMEYER et H. TUCHLE, Histoire de l'Eglise, t. I, SALVATOR 1962
E. C.
BLACKMAN, Faith- Faithfulness, trong INTERPRETER'S DICTIONARY OF THE
BIBLE, vol. II,
ABINGDON
PRESS- NEWYORK 1962
LEONARDO
BOFF, Le sacrement de mariage, trong CONCILIUM 87 (1973), pp. 21-31
E.
CASSIRER, An essay on man, YALE UNIVERSITY PRESS 1962
Y. CONGAR,
Vaste monde ma paroisse: Vérité et dimensions du salut,
TÉMOIGNAGE CHRÉTIEN 1968- FV.27
ÉTIENNE
CORNÉLIS, Valeurs chrétiennes des religions non-chrétiennes, CERF 1965
M-M. DAVY,
Les symboles et l'histoire, trong LE SYMBOLE, bộ RECHERCHES ET DÉBATS n.
29
PARIS XII (1959)
JOSEPH DE
FINANCE, Connaissance de l'être: Traité d'ontologie, DDB- PARIS 1966
HENRI DE
LUBAC, Dieu se dit dans l'histoire, CERF 1974 FV. 159.
GILDO DOMINICI, Notes de théologie morale. Les vertus
thélogale, GHHV sans date ni lieu
ANTON
DREXEL, Bí tích đại cương, GHHV- DALAT không ngày
ANTON
DREXEL, Traité de la grâce du Christ ou L'homme dans le Christ,
COLLÈGE PONTIFICAL SAINT PIE X- DALAT 1972
MIRCEA
ÉLIADE, Le sacré et le profane, GALLIMARD 1965
PAUL
FOULQUIÉ et RAYMOND SAINT-JEAN, Dictionnaire de la langue philosophique,
PUF- PARIS 1962
A. GAUDEL,
art. “Péché eriginel”, trong DTC XII/1 PARIS 1933
M.
HEINRICHS, Théologie catholique et pensée asiatique, CASTERMAN 1965
HUYỀN CHÂN,
Đạo Phật, PHẬT HỌC VIỆN TRUNG PHẦN-NHA TRANG 1965
LOUIS
LEAHY, Philosophie de l'homme, COLLÈCE PONTIFICAL ST. PIE X- DALAT 1974
éd. XAVIER
LÉON- DUFOUR, Vocabulaire de théologie biblique, CERF- PARIS 1966
YUSE PHẠM
THANH LIÊM, Thần học các tôn giáo ngoài kitô,
bđm- ĐALAT 1982
LÃO TỬ, Đạo
Đức Kinh, bản dịch NGUYỄN DUY CẦN, xb. KHAI TRÍ-SAIGON 1961
GABRIEL
MARCEL, Foi et réalité, AUBIER 1967 FV.38
HENRI
MAURIER, Essai d'une théologie du paganisme, L'ORANTE- PARIS 1965
J. VAN DER
MEERSCH, Art. “Grâce”, trong DTC VI/2
LOUIS
MILLET, Le pouvoir du symbolisme, trong Le Symbole, RECHERCHES ET DÉBATS n.29,
PARIS XII (1959)
LOUIS
MODEN, Le miracle- signe du salut, DDB. 1960
G.
MUSCHALEK, La création de l'alliance, Problème des rapports entre
la nature et la grâce,
trong MYSTERIUM SALUTIS VI, BURNS-OATES 1969
NARADA MAHA THERA, The Buddha and his teachings,
bản dịch của PHẠM KIM KHÁNH,
Đức Phật và Phật pháp, HẠNH PHÚC- SG.1971
GEOFFREY PARRINDER,
Revelation in other Scriptures, trong STUDIA MISSIONALIA, vol.20 (1971),
éd. M. DHAVAMONY, sj, GREGORIANA 1971
É.
PORTALIÉ, art. “Augustin”, trong DTC I/1 PARIS 1923
É.
PORTALIÉ, art: “Abélard”, trong DTC I/1 PARIS 1923
B.
POSCHMANN, Pénitance et onction des malades, CERF 1966
KARL
RAHNER, Piété personnelle et piété sacramentelle, trong
ÉCRITS THÉOLOGIQUES, t. II, DDB 1960
KARL
RAHNER, La nature et la grâce, trong QUESTIONS THÉOLOGIQUES AUJOURD'HUI, t. II,
DDB-PARIS 1963
KARL
RAHNER, Pour la théologie du symbole, trong E.T., t. IX, DDB. 1968
K. RAHNER,
Parole et Eucharistie, trong E.T., t. IX, DDB. 1968
K. RAHNER,
Eglise et Sacrements, trong QUESTIONES DISPUTATAE 10, DDB.1970
A-M.
ROGUET, Renseignements techniques, trong THOMAS D’AQUIN, S.T. III, q.60-65, bản
dịch của A-M. ROGUET, DESCLÉE et Cie, PARIS 1945, pp.255-380
HENRI
RONDET, Gratia Christi, BEAUCHESNE ET SES FILS- PARIS 1964
HENRI
RONDET, Essais sur la théologie de la Grâce, BEAUCHESNE- PARIS 1964
E.
SCHILLEBEECKX, Le Christ sacrement de la rencontre de Dieu, CERF
1960 FV.133
HEINZ
ROBERT SCHLETTE, Towards a Theology of Religions, bản dịch của W.J.
O'HARA, HERDER-FREIBUG 1966, Coll.
QUESTIONES DISPUTATAE 14
P.
SCHOONENBERG, L'home dans le péché, trong MYSTERIUM SALUTIS VIII,
CERF 1970
OTTO SEMMEILROTH,
Art. “Mediatorship”, trong SACRAMENTUM MUNDI, BURNS-OATES 1969
GUSTAV
SIEWERTH, L'home et son corps, PLON-PARIS 1957
GUSTAVE
THILS, Propos et problèmes de la théologie des religions non-chrétiennes,
CASTERMAN 1966
St. THOMAS
d'AQUIN, Summa Theologiae, MARIETTI 1952
PAUL
TILLICH, Aux frontières de la religion et de la science, CENTURION 1970
JEAN
TROUILLARD, Symbole et distance, trong Le Symbole, RECHERCHES ET DÉBATS n.
29,
PARIS XII (1959)
JAN-
HENDRIK WALGRAVE, Un salut aux dimensions du monde,
bản dịch từ tiếng Hà Lan bởi
Emmanuel Brutsaert, CERF- PARIS 1970
CHO VINH DANH CHÚA HƠN
AMDG
AD MAIOREM DEI GLORIAM
Bài kết thúc thời gian học thần học,
xong 20:40’ ngày lễ thánh Phaolô Miki (06.02.85)
HOME CHIA SẺ LỜI CHÚA LINH ĐẠO THẦN HỌC ĐỜI SỐNG SOME THEMES IN
ENGLISH
DẪN
NHẬP THẦN HỌC MẶC
KHẢI SẼ SỐNG
NẾU BẠN TIN TÔN
GIÁO NGOÀI KITÔ ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG
Chúc các bạn an vui.
phamthanhliem
[1] Vocabulaire de théologie biblique, ed. X. LÉON-DUFOUR, CERF-PARIS 1966, art. “Foi”, col.389
E. C. BLACKMAN, art. “Faith-Faithfulness”
trong INTERPRETER' S DICTIONARY OF THE BIBLE, vol.II, pp. 222-223, ABINGDON PRESS- NEW JORK 1962
[2] G. DOMINICI, Notes de théologie morale- Vertus théologales, GHHV., pp. 15.17
[3] G. DOMINICI, op. cit., p.10
G. MARCEL, Foi et la réalité, AUBIER 1967, F.V. 38, PP. 95- 100
G. Marcel cho rằng có sự khác nhau sâu xa giữa ý kiến, xác tín, và đức tin. Cf. G. MARCEL, op. cit., pp. 93.96-97.
[4] G. MARCEL, Ibidem
[5] H. DE LUBAC, Dieu se dit dans l'histoire, CERF 1974 FV.159, p.85
[6] ROQUEPLO, La foi d' un mal croyant, CERF-PARIS 1969, p. 169; J. MOUROUX, Je crois en Toi, CERF-PARIS 1968, p. 25tt trích bởi G. DOMINICI, op. cit., p. 9
[7] Facienti quod in se est, Deus non denegat gratiam;
trích bởi G. THILS, op. cit., p. 16
[8] E. SCHILLEBEECKX, Le Christ- sacrement de la rencontre de Dieu, CERF 1960, F.V. 133, p. 160
[9] Cf. A. DREXEL, op. cit., p. 128
[10] G. DOMINICI, op. cit., p. 45.46.50
[11] Những người không nhận biết Thiên Chúa, và đặc biệt những người chủ trương vô thần thường dựa vào ý niệm nào đó về Thiên Chúa và với lý luận họ khẳng định “niềm tin vô thần” của họ; chẳng hạn họ lý luận: nếu Thiên Chúa hiện hữu thì Ngài có những phẩm tính này phẩm tính nọ, và nếu vậy thì phải như vầy như vầy, nhưng thực tế thì không có như vậy, vậy không có Thiên Chúa.
Cf. G. MARCEL, Foi et réalité, AUBIER 1967, F.V. 38, p. 91. Chẳng hạn nếu Thiên Chúa nhân lành và toàn năng thì tại sao có sự dữ? Mà chúng ta thấy sự dữ hiện diện đầy tràn, vậy Thiên Chúa không hiện hữu.
Nếu Thiên Chúa toàn tri thì con người đâu có tự do!
[12] Xem ROBERT COFFY, Dieu des athées, xb. CHRONIQUE SOCIAL DE FRANCE
[13] Kinh Nguyện Thánh Thể IV trong SÁCH LỄ GIÁO DÂN- SÀIGON 1972, trg. 1415
[14] G. DOMINICI, op. cit., pp. 47-48; Cf. J. MARITAIN, Neuf lecons sur les notions premières de la philosophie morale, pp. 119-121.
J. MARITAIN, L'opzione fondamentale della vita morale e la grazia, GREGORIANUM 41 (1960), pp. 601-603.
J. DE FINANCE, Ethica generalis, PUG-ROMAE 1959, pp. 155-162
[15] G. DOMINICI, op. cit., pp. 49-50
[16] Trong D.C. 1951 col.1480 trích bởi Y. CONGAR, op. cit., p. 141
[17] Nơi các kitô hữu đầu tiên, lời tuyên xưng “Tôi tin một Thiên Chúa là Cha toàn năng, và đức Yêsu Kitô Con Một Thiên Chúa,...” được gọi là các biểu tượng đức tin (biểu tín).
Xem DS.1-5.6tt
[18] RECHERCHES ET DÉBATS XII (1969), Le Symbole, trg. 8
[19] J. TROUILLARD, art. “Symbole et distance” trong RECHERCHES ET DÉBATS XII (1969), Le Symbole, trang 40-41
[20] P. TILLICH, Aux frontières de la religion et de la science, CENTURION 1970, pp. 19-20
[21] FERNAND CHAPEY trong P. TILLICH, op. cit.,p, 22
[22] P. TILLICH, op. cit., p. 162-163
Đức Kitô cũng là biểu tượng lịch sử.
[23] HUYỀN CHÂN, Đạo Phật,
PHẬT HỌC VIỆN TRUNG PHẦN NHA TRANG 1965, trg. 16
[24] HUYỀN CHÂN, op. cit., trg. 45
[25] NARÀDA M. T., Buddha and his teachings,
bản dịch của PHẠM KIM KHÁNH, Đức Phật và Phật pháp, SG.1971, trg. 289-290
[26] Cf. L. MONDEN, Le miracle- signe du salut, DDB. 1960, p. 121
[27] É. CORMÉLIS, Valeurs chrétiennes des religions non- chrétiennes, CERF 1965, p. 58
[28] RAYMOND PANIKKAR, “Confrontation between Hinduism and Christ”, trong LOGOS X (June 1969), p. 48, 43.
PARADKAR, Christian Encounter, p. 33,
trích bởi ASANDAS BALCHAND, sj, The salvific value of non- christian religions according to Asian Christian Theologians Writings in Asian Published Theological Journals 1965-1970, EAPI- MANILA 1973, p. 37
[29] Cf. E. SCHILLEBEECKX, Le Christ- sacrement de la rencontre de Dieu, CERF 1960, F.V. 133.
Cf. A. DREXEL, Bí tích đại cương, GHHV-DALAT, không ngày.
[30] K. RAHNER, Pour la thélogie du symbole, trong E.T., IX, DDB. 1968, p. 34-35
[31] K. RAHNER, Parole et Eucharistie,, trong E.T., IX, DDB.1968, p. 74
[32] K. RAHNER, op. cit., pp. 67-68
[33] A. DREXEL, Bí tích đại cương, GHHV- DALAT không ngày, trg. 62, trích dẫn GABRIEL BIEL, In 4 S., d. 3, q. unica, a. 2
St. THOMAS, S.T., III, 62,
St. THOMAS, 4 S, d.1, q.2, a. 6
St. AUGUSTIN, In Jon. tract., 80, 3 PL.35, 1840
[34] Với bí tích thánh tẩy, chúng ta thấy rõ điều này; nhưng còn với các bí tích khác? Một điều chúng ta lưu ý: người Công Giáo tin có bảy bí tích, nhưng anh em Tin Lành không tin truyền chức và xức dầu, là bí tích! Anh em Chính Thống coi bí tích Rửa tội và bí tích Thêm sức là một! Những bất đồng giữa Chính thống giáo, Công Giáo và Tin Lành, là số bí tích; và hàm chứa vấn đề: Đức Kitô có thiết lập những bí tích mà các giáo phái khác nhau- đều là Kitô giáo- không tin nhận không?! Vấn đề này chúng ta không bàn đến trong phạm vi bài này.
[35] Giáo Lý Công Giáo, TÂN ĐỊNH THIỆN BẢN- SAIGON 1967, số 150, trg. 60.
Sách Bổn dạy những lẽ đạo cần cho được rỗi linh hồn, ĐỊA PHẬN HÀ NỘI- HIỆN TẠI 1957, phần II, đoạn V, điều 2, trg. 76
[36] B. POSHMANN, Pénitance et onction des malades, CERF 1966, Coll. HISTOIRE DES DOGMES, p. 168
[37] DUNS SCOTT, Ox., IV, dist.17, q.1, n.11
cf.B.POSHMANN, op. cit., p. 63
[38] DUNS SCOTT, Ox., IV, dist.14, q. 4, n. 6
cf. B. POSHMANN, op. cit., p.163
[39] Ibidem, n. 7
[40] K. RAHNER, Piété personnelle et piété sacramentelle,
trong E.T., II, DDB. 1960, trg. 120
K. RAHNER, Parole et Eucharistie, trong E.T., IX, DDB. 1968 p. 83
[41] Ibidem, trg. 83
[42] K. RAHNER, Piété personnelle et piété sacramentelle, trong E.T., II, DDB. 1960, p. 124
[43] Đây là quan niệm của thánh Thomas d'Aquin
K. RAHNER, op. cit., p. 125
[44] Vì ân sủng cũng có tính cách nhập thể, biểu lộ qua thân xác.
[45] K. RAHNER, op. cit., pp. 135.138-139.141-142
[46] Xem thêm K. RAHNER, Eglise et Sacrements,
DDB. 1970, p. 38-39, Coll. QUESTIONES DISPUTATAE 10
[47] Không hàm ý loại trừ việc lãnh bí tích.
[48] INNOCENTIUS III, Ep. “Maiores Ecclesiae causas” ad Ymbertum archiep. Arelat., exeunte a.1201; DS. 780/410/
E. SCHILLEBEECKX, op. cit., p.160
[49] DS.780
[50] DS.1310.1348.1602
[51] VATICAN II, Sắc lệnh Truyền giáo, số 1
[52] VATICAN II, Tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài kitô, số 2
[53] Theo thiển kiến, khái niệm Đạo nơi đạo Lão là một biểu tượng có thể kitô hóa:
“Đạo khả Đạo phi thường Đạo. Danh khả phi thường Danh”
LÃO TỬ, Đạo Đức Kinh, IA
bản dịch NGUYỄN DUY CẦN, KHAI TRÍ- SAIGON 1961, trg. 37
[54] Cf. K.RAHNER, La nature et la grâce,
trong QUESTIONS THÉOLOGIQUES AUJOURD'HUI, t. II, DDB. 1963, p. 33
[55] K. Rahner cho rằng ân sủng là chính Thiên Chúa... và không thể hiểu ân sủng bằng phạm trù “sự vật” dù rằng lịch sử triết học và thần học có diễn tả ân sủng như một thực tại, như một tính chất, như một tùy thể, như một tình trạng,...
Sở dĩ lịch sử triết học và thần học phải dùng phạm trù hữu thể để nói về ân sủng, bởi vì có gì “thực” hơn tình yêu Thiên Chúa, có gì có thể biến đổi con người hữu hiệu bằng tình yêu Thiên Chúa,... , và bởi vì chúng ta phải diễn tả những thực tại cao siêu bằng những hạn từ trừu tượng, nên phải trong tinh thần đó chúng ta mới hiểu được những gì triết học và thần học thời trung cổ nói về ân sủng.
Xem K. RAHNER, Ibid., p. 28-29.32.
Cf. CH. BAUMGARTNER, La grâce du christ, DESCLÉE- BELGIUM 1963, P. 164-166