HOME CHIA SẺ LỜI CHÚA LINH ĐẠO THẦN HỌC ĐỜI SỐNG SOME THEMES IN ENGLISH
HIỆN TẠI MỚI QUAN TRỌNG BẠN ĐƯỜNG LINH THAO ĐỂ TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC HƠN
LINH THAO MƯỜI NGÀY LINH THAO TRONG CUỘC SỐNG ĐẶC SỦNG DÒNG TÊN SÁCH LINH THAO CỦA THÁNH
YNHÃ
ĐỂ TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC HƠN
Jptl
MỤC LỤC:
PHẦN
HAI: NHÂN HỌC THIÊNG LIÊNG
A. KHUYNH CHIỀU
VÀ KHẢ NĂNG CỦA CON
NGƯỜI
2). Nét tuyệt vời của con người: tự do siêu vượt
B. CON NGƯỜI: TINH
THẦN NHẬP THỂ
1). Con người chỉ tự do trong hành động
2). Không ai đến được với Ta nếu Cha Ta không lôi kéo
nó (Yn.6,44)
C. CON ĐƯỜNG
THIÊNG LIÊNG (TU ĐỨC)
1). Con người và ý định của Thiên Chúa
3). Thánh Thần Thiên Chúa hoạt động để dẫn đưa con
người đến với Thiên Chúa
4). Con người tại thế tự do trước những tác động
5). Cầu nguyện và nhận định các thần
Để
có thể tiến bộ hơn về đời sống thiêng liêng, và đặc biệt nếu để giúp người khác
về đời sống thiêng liêng, chúng ta cần hiểu biết về con người một cách sâu xa.
Vì
thế, chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu về:
khuynh chiều và khả năng siêu vượt của con người,
con người xét như tinh thần nhập thể,
con đường để nên thánh.
Đức
Yêsu nói với Phêrô: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa cơn thử thách, tâm thần
tuy sẵn sàng nhưng xác thịt thì yếu nhược” (Mc.14,38). Thánh Phaolô cũng nói:
“Sự lành tôi muốn, tôi không làm; còn sự dữ tôi không muốn tôi lại làm”
(Rm.7,19).
Con
người là thân xác và tinh thần. Con người có khuynh chiều của thân xác và
khuynh chiều của tinh thần. Có thể nói khi nào còn là người tại thế với thân
xác, chúng ta còn có những khuynh chiều của thân xác mà chúng ta cần vượt qua trong mức độ nó có trái với ơn gọi con
người hay không.
Sinh
vật, và cụ thể những con vật mà chúng ta thường thấy, sống theo bản năng. Đói
cần phải ăn! Con vật không thể không ăn nếu có đồ ăn trước mắt, khi nó đói. Bản
năng sinh tồn: “đừng đánh chó ở đường cùng”, hãy cho nó một lối thoát, vì nếu
không, nó sẽ cắn. Bản năng truyền giống: con vật không thể cưỡng lại được
khuynh chiều tự nhiên: khi tới thời kỳ, nó phải thỏa mãn đòi hỏi để truyền sinh.
Vì
con người có thân xác, nên con người cũng cảm thấy những khuynh chiều "tự
nhiên" nơi chính con người mình như những sinh vật hạ đẳng khác; nhưng phải
lưu ý ngay kẻo hiểu lầm: con người không chỉ có thân xác, nhưng con người còn
có khả năng vượt trên khuynh chiều "tự nhiên" của xác thịt nữa.
Nơi
con người vẫn có những khuynh chiều thuộc thân xác như các sinh vật hạ đẳng
khác, tuy dù những khuynh chiều này được biểu lộ tinh tế hơn .
Con
người vẫn cảm thấy nơi mình khuynh hướng ham mê ăn uống, ham mê tìm kiếm tiền
tài sắc dục, ham mê công danh địa vị; và thực tế, có những người vì ham mê một
ít tiền bạc, đã dám giết người cướp của; có người đã sắp xếp mưu đồ hạ bệ người
khác, nhằm chiếm đoạt địa vị danh vọng...
Trí
tưởng tượng là một khả năng của con người, được coi là thành phần của thân xác,
nhưng nó không hoàn toàn tùy thuộc ý muốn con người chúng ta.
Những
hình ảnh mà giác quan đã cảm thụ, được
trí nhớ lưu giữ lại; rồi với khả năng liên tưởng của lý trí, những hình ảnh
được trình bày trong tâm trí theo những khuynh chiều của con người chúng ta,
không chỉ theo những khuynh chiều của thân xác mà còn theo cả những khuynh
chiều của tinh thần nữa.
Khuynh
chiều của thân xác đôi khi được diễn tả qua trí tưởng tượng phong phú đến mức
độ chúng ta không ngờ đến!
Trí
tưởng tượng thuộc con người, nhưng không hoàn toàn "là" chúng ta.
Những hình ảnh của trí tưởng tượng gợi lên, có thể "cám dỗ" chúng ta,
tuy vậy con người là một chủ vị tự do, con người có thể thuận theo hay từ khước
những điều đó.
Con
người còn có lý trí, có khả năng trừu xuất, nhận ra định luật tổng quát nơi
những cái đặc thù, nhận ra những định luật chi phối thế giới tự nhiên. Các khoa
học tự nhiên đặt nền tảng dựa vào lý trí “tự nhiên” này.
Ở
mức độ lý trí ‘luận lý’ này, con người thông minh hơn con vật, nhưng điều này
cũng không làm cho “con người là người” đúng nghĩa. Con người với lý trí, còn
có một khả năng khác đặc biệt và trổi vượt trên con vật, mà con vật không thể
có được, chính điều đó làm cho con người trở nên người, nên tinh thần, nên
thánh. Đó là khả năng "siêu vượt" của con người với lý trí "tự
do".
Thật ra không phải có hai lý trí, một
“tự nhiên” và một “không tự nhiên”, nhưng phân biệt như vậy, là để thấy rõ khả
năng của lý trí con người thôi. Khả năng lý trí “không tự nhiên”, tức siêu
vượt, sẽ được đề cập đến sau.
Con
người có tự do, tùy mình chọn điều này hay điều kia theo sở thích. Ăn hay không
ăn, ngủ hay không ngủ, tùy mình thích hay không thích, tự do[1] mình muốn.
Nếu
chỉ dừng ở bình diện trên, không đặt tiêu chuẩn tốt xấu, thì ý muốn tự do ở đây chỉ được hiểu là khả
năng chọn lựa của con người. Nhưng con người còn có khả năng đặc trưng: lựa
chọn theo tiêu chuẩn thiện ác, tốt xấu. Con người xét như một hữu thể nhân
linh, sẽ lựa chọn điều này hay điều kia dựa vào tiêu chuẩn "điều đó có tốt đối với tôi hay không".
Cái
làm cho con người trổi vượt và hoàn toàn khác với con vật, đó là khả năng siêu vượt của con người.
Con người là một chủ vị có khả năng siêu
vượt, và khả năng siêu vượt này bao hàm con người có lý trí và ý chí tự do.
Thường
xưa nay người ta vẫn cho rằng “không có vấn đề lý trí tự do hay không tự do”.
Điều gì đúng là đúng, điều gì sai là sai, lý trí không thể phán đoán một điều
đúng là sai hoặc điều sai là đúng được. Giác quan có thể sai lầm như khi con
người bị ảo giác (trường hợp người đi trong sa mạc dễ mắc phải: mắt thấy có
nước nhưng khi tới gần mới biết mình lầm), nhưng lý trí luôn luôn phán đoán
đúng và không bị ảnh hưởng bởi bất cứ
cái gì! 2+2=4 là một thí dụ điển hình.
Lý
trí thường phán đoán đúng trong trường hợp “điều đó” không liên hệ tới chủ thể
phán đoán, nhưng nếu “điều đó” có liên quan mật thiết đến chủ thể, thì lý trí
vẫn có thể bị ảnh hưởng hoặc bị chi phối bởi ý muốn của chủ thể. Trường hợp này
lý trí là công cụ của chủ thể, tìm những lý lẽ để biện minh cho ý muốn của chủ
thể. Chẳng hạn một người muốn chạy tội, không dám nhận sự thật về con người của
mình, tìm cách đổ tội cho người khác hoặc đưa ra những lý do “ngụy biện” cho
hành vi của mình. Trường hợp này bên giáo lý nhà Phật cho rằng lòng dục đã làm
con người “vô minh”.
Đứng
trước lời “vô ngôn” của vũ trụ:
“Đây không phải lời cũng không phải tiếng, để mà con người có thể cho rằng âm
thanh chúng không thể lọt tai; nhưng thực sự tiếng chúng (dù không nghe được)
đã vang đến tận cùng trái đất, và lời chúng (dù không thành tiếng) truyền ra
khắp cõi địa cầu” (Tv.19[18],4-5),
con người với lý trí của mình, đúng ra
đã phải nhận biết Thiên Chúa là Đấng sáng tạo vũ trụ này. Nếu ai đó đã không
nhận biết Thiên Chúa hiện hữu khi nhìn vũ trụ hữu hình tuyệt đẹp này, thì e
rằng họ chưa tự do thực, và lý trí của họ chưa vượt lên trên tạo vật, vẫn còn
dừng lại ở bình diện sự vật và chưa trở thành tinh thần đúng nghĩa.
Con
người và lý trí chỉ thực sự “tự do”, khi vượt qua thực tại vật chất khả giác để
vươn tới thực tại siêu vượt là Thiên Chúa vô hình.
Con
người có lương tâm. Đó cũng là nét đặc trưng của con người. Lương tâm là tiếng
Thiên Chúa nói nơi cung lòng con người, là lý trí “tự do”, là lý trí vượt qua tạo vật để vươn tới Thiên Chúa.
Thiên
Chúa dùng lương tâm để thức tỉnh con người, để cảnh cáo và nhắc nhở con người
trở về với Thiên Chúa khi con người lạc xa Thiên Chúa bằng những chọn lựa tội
lỗi.
Lương
tâm bình an là dấu chỉ cho thấy con người sống
trong tương quan tốt với Thiên Chúa. Tuy vậy cũng nên lưu ý trường hợp
một người đã chai lì và không nghe được tiếng nói của lương tâm cách rõ ràng.
Trong trường hợp này, tuy dù lương tâm “khiển trách” nhưng họ vẫn cho rằng
“lương tâm không hề trách cứ họ điều gì”.
Trong
đời sống thiêng liêng, khi cảm thấy mất bình an, người ta cần tìm hiểu để thấy
rõ chỗ nào sai lệch để điều chỉnh lại
đời sống của mình.
Con
người, và chỉ có hữu thể ngôi vị mới biết yêu. Yêu là nét đặc trưng của một
ngôi vị.
Con
vật không biết yêu, nó sống theo bản năng. Ngay cả khi một con vật nuôi con,
bảo vệ con, thì cũng là sống theo bản năng của nó. Một con người cũng có thể
chỉ sống theo bản năng chứ không sống yêu thương.
Yêu
là sống theo lý trí “tự do” chứ không sống theo cảm tính; tuy vậy, yêu không
loại trừ cảm tính. Vượt lên trên, không
sống theo bản năng, nhưng sống theo lý trí “tự do”, đó là yêu. Chính vì
vậy, không trả thù nhưng nhường nhịn, nhường phần hơn cho người khác, hy sinh
cho người khác đến độ quên chính bản thân mình, đó là yêu.
Con
người là tinh thần, nhưng con người có thân xác. Các thiên thần cũng là tinh
thần, nhưng thiên thần không có thân xác như con người.
Con
người là tinh thần, nhưng chỉ là tinh thần qua thân xác. Nghĩa là, nhờ thân xác
và qua thân xác mà con người là tinh thần. Nói bằng ngôn từ của cha K.Rahner,
“con người là tinh thần nhập thể”.
Là
tinh thần, nghĩa là, con người không chỉ dừng lại ở bình diện “sự vật”, nhưng
con người có khả năng vượt trên sự vật để vươn tới Tuyệt Đối. Một điều cần lưu
ý: con người hoàn toàn tự do để siêu vượt; nghĩa là, siêu vượt hay không siêu
vượt, là TỰ DO của mình.
Con
người là hữu thể tự do, có thể hành động theo sở thích. Điều này ai trong chúng
ta cũng nhận thấy trong chính kinh nghiệm sống của mình.
Tuy
con người là hữu vị tự do, nhưng ai trong chúng ta cũng biết, con người cần ăn
để sống.
Con
người không thể sống nếu không ăn! Như vậy, phải chăng con người không có tự
do? Không! Con người có tự do, nhưng con
người chỉ tự do trong giới hạn của mình, con người không có tự do tuyệt đối để
rồi “không cần ăn cũng sống”! Con người “tự do” trong và qua hành động của mình.
Con
người, nếu đòi cho mình có tự do tuyệt đối, thì trong hành vi "yêu sách và
không chấp nhận thân phận con người" đó, cho thấy họ không là người “tự do
đích thực”.
”Tự
do đích thực” không có nghĩa là muốn làm gì thì làm theo “ý thích xác thịt” của
mình.
Con
người tự do đích thực khi sống theo “ơn gọi làm người”, tức là khi con người
sống theo điều lý trí thấy là đúng, theo điều tốt cho mình và cho tha nhân,
theo ý định của Thiên Chúa về mình và về con người, theo tiêu chuẩn là mình
“với Thiên Chúa là chuẩn mực”.
Con
người sống theo mình “với Thiên Chúa là chuẩn mực”, là con người luôn đặt Thiên
Chúa lên trên hết, coi anh em là thực tại có giá trị như mình, trong hành động
luôn tôn trọng phẩm giá con người mình và tha nhân, mong muốn cho tha nhân được
hạnh phúc như chính mình.
Con
người thực sự tự do khi yêu thương chính mình và tha nhân.
Ăn,
uống, truyền sinh,..., là những hành vi mà con vật bình thường nào cũng có. Con
người cũng có những hành vi và sinh hoạt như vậy. Tuy nhiên, con người là hữu
thể tự do, không hiểu theo nghĩa là không phải ăn phải uống,..., nhưng theo
nghĩa: khi con người làm những điều đó hay điều khác, con người hành động theo
mục đích và tiêu chuẩn nào, con người tìm kiếm điều gì khi làm như vậy, con
người làm những điều đó có nhằm ích lợi đích thực cho mình và cho tha nhân hay
không, con người có tìm kiếm hạnh phúc đích thực cho mình và cho tha nhân
không!
Con
người chỉ tự do đích thực trong hành động và bằng hành vi hoạt động của mình,
nghĩa là, bằng chính đời sống cụ thể. Qua chính hành vi hoạt động trong đời
sống thường ngày, mà một người trở nên người tự do đích thực hay thành người nô
lệ những tham muốn ích kỷ của mình.
Con
người được sinh ra để được tự do đích
thực, để trở nên thần linh qua hành vi hoạt động của mình. Thế nhưng, con
người trong lịch sử đã không sống theo ơn gọi của mình, đã không siêu vượt lên
khỏi vật chất, mà đã làm nô lệ tạo vật.
“Điều
tôi muốn (tôi biết là đúng) tôi không làm, còn điều tôi không muốn (tôi biết là
không đúng) tôi lại làm” (Rm.7,19).
“Con
người cảm nghiệm mình bất lực không làm được điều mình thấy là đúng”! Ai có
kinh nghiệm trong đời sống thiêng liêng chắc đã nhận biết điều này. Tuy vậy,
mỗi người đều nhận biết mình vẫn tự do
khi làm điều mình biết là không đúng.
Siêu
vượt, sống tốt lành thánh thiện, không thể là kết qủa do nỗ lực riêng của con
người "muốn độc lập với Thiên Chúa”. Như vậy thì sao? Phải chăng có mâu
thuẫn khi khẳng định con người "tự do", nghĩa là con người được mời
gọi siêu vượt để trở nên tự do đích thực, để vươn lên tới Thiên Chúa, nhưng
đồng thời lại khẳng định con người cảm thấy mình bất lực trong nỗ lực làm điều
thiện hảo? Những khẳng định trên không hề mâu thuẫn nhau!
Trong
vườn địa đàng xưa, Eva muốn trở nên thần linh một cách độc lập với Thiên Chúa,
và hậu qủa là con người phải chết. Cái chết thể lý là biểu hiệu cái chết tinh
thần, khi con người không thông hiệp với Nguồn Sống là chính Thiên Chúa (Stk.3,
1tt).
Thế
nhưng ngay từ thời đó, Thiên Chúa đã chủ động đi tìm và đối thoại với con người
"từ chối tình yêu của Ngài”(Stk.3,9tt). Sở dĩ như vậy, vì Thiên Chúa yêu
thương con người, Ngài yêu chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân (Rm.5,8).
Ngài luôn yêu thương con người và tìm mọi cách lôi kéo con người trở về với Ngài.
Không
khi nào con người có thể độc lập tuyệt đối với Thiên Chúa, vì nếu không nhờ
Thiên Chúa thì con người không thể hiện hữu được. Không chỉ thế, ngay cả khát
vọng hoàn thiện, con người cũng có nhờ Thiên Chúa. Tóm lại, tất cả những gì tốt
lành thánh thiện nơi con người, cũng đều nhờ Thiên Chúa mà có; và nếu không nhờ
Thiên Chúa thì không có gì tốt lành thánh thiện nơi con người.
Thiên
Chúa luôn yêu thương con người, Ngài không ngừng mời gọi con người đến với
Ngài; Ngài mời gọi con người đáp trả tình yêu bằng lôi kéo con người đến với
Ngài.
Yêu
thương là siêu vượt con người hạ đẳng tầm thường của mình, không chiều theo cảm
tính và bản năng "gây hấn" nơi mình, là trở nên giống Thiên Chúa. Yêu
thương là nét tuyệt vời của con người mà con vật không thể có được. Yêu thương
là “thành nhân”, là trở nên con người hoàn thiện, là nên thánh.
Yêu
thương là sống theo lý trí "tự do", là khao khát và sống theo điều lý
trí "tự do" thấy là đúng. Không sống theo lý trí tự do, là không yêu
thương Thiên Chúa và con người.
Yêu
thương là hành vi tự do, hành vi nhân linh. Cầu xin Chúa giúp để mình sống yêu
thương hơn, là một hành vi siêu vượt và cũng là hành vi yêu thương. Nói cách
khác, xin cho mình sống yêu thương, là hành vi làm mình trở nên tinh thần hơn.
Ở
mục trên, chúng ta đã nhìn con người thực của chính chúng ta một cách cụ thể,
và đã phần nào thấy nét cao qúy của con người. Bây giờ, chúng ta tiếp tục tìm
hiểu con người trong ý định của Thiên Chúa, để rồi chúng ta có thể đến với
Thiên Chúa một cách dễ dàng hơn dưới sự hướng dẫn và trợ giúp của Ngài.
Con
người là ai? Con người sẽ đi về đâu? Đời sống con người có giá trị và ý nghĩa nào
không? Những câu hỏi trên đã được nhiều người quan tâm thao thức đưa ra những
lý thuyết trả lời; và có những lý thuyết đã ảnh hưởng rất sâu đậm trên lập
trường sống của nhiều người. Có những lý thuyết sai lầm đã làm băng hoại bao
nhiêu tâm hồn, và đã làm bao người đau khổ. Ánh sáng của mặc khải sẽ giúp chúng
ta có cái nhìn đúng đắn về con người, và Thiên Chúa sẽ chỉ cho chúng ta con
đường để chúng ta sống hạnh phúc đích thực.
Với
lý trí của mình, con người đã mò mẫm đi tìm lời giải đáp về chân tính của mình.
Lời lý giải thì nhiều và đa dạng, và đôi khi cũng mâu thuẫn nhau; nhưng điều
đáng bận tâm hơn là: “những lý giải này có đúng thực không”?
Có
người cho rằng con người do tiến hóa ngẫu nhiên mà có. Nếu con người ngẫu nhiên
mà hiện hữu, thì con người đâu có giá trị trường tồn! Và nếu đúng như vậy, chết
là hết! Và người ta có thể kết luận: “con người có thể làm những gì mình thích,
mình muốn, hoặc những gì làm thỏa mãn mình”.
Một
nhãn quan như vậy về con người, kéo theo những hệ luận vô cùng tai hại:
·
không có hạnh phúc đích
thực;
·
nếu nói đến hạnh phúc,
thì hiểu hạnh phúc là thỏa mãn nhu cầu thể lý; nếu có nói tới nhu cầu tinh
thần, thì tinh thần ở đây cũng chỉ là dạng khác của thân xác;
·
con người không là một
gía trị trường tồn; vì tất cả sẽ hư vô khi cái chết đến;
·
con người có thể làm tất cả; luật pháp chỉ có
gía trị giúp trị an, để đời sống “xã hội” được dễ dàng hơn thôi, không phản ánh
bản chất con người.
Một
số người cho rằng không thể lý giải sự hiện hữu của con người, con người là
hiện sinh “phi lý”, cuộc đời đáng “buồn nôn”.
Những
người thuộc trường phái này không biết mình từ đâu tới và mình sẽ đi về đâu, họ
không thấy ý nghĩa cuộc đời. Một nhân
sinh quan như vậy sẽ dẫn con người tới thái độ bi quan chán chường:
·
họ có thể sống buông
thả theo những khuynh chiều “thú tính” của con người;
·
và tệ hơn, họ có thể tự
tử nếu họ gặp quá nhiều thất bại trên đường đời!
“Ấy Con Tạo
đành hanh quá quắt,
Chết đuối người trên cạn mà chơí”!
Tại
sao lại có lắm cảnh éo le trong cuộc đời? Phải chăng con người chỉ là trò chơi
của Tạo Hóa, của những thần linh “thích vui đùa trên sự đau khổ của con người”?
Phải chăng con người đã có một phần số rõ ràng, không gì có thể tránh được?[2] Tại sao có sự ác, phải chăng vì Tạo
Hóa muốn vậy, bởi vì Tạo Hóa quyền năng vô cùng mà?
Một
cái nhìn sai lệch về Thiên Chúa kéo theo cái nhìn sai lệch về con người. Và nếu
chấp nhận cái nhìn như vậy về con người và về Thiên Chúa, thì con người không
thể sống hạnh phúc được vì luôn ở trong tình trạng lo sợ bất an.
Thiên
Chúa không phải là “ông kẹ”, cũng không phải là “Con Tạo đành hanh quá quắt”,
cũng không phải là ông chủ độc ác, nhưng là Cha Vô Cùng Nhân Từ và Yêu Thương.
“Thiên
Chúa muốn cho tất cả mọi ngưòi được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm.2,4).
Thiên Chúa muốn chia sẻ hạnh phúc với con người khi Ngài tạo dựng con người.
Thiên
Chúa hoàn toàn tự do trong việc tạo
dựng con người, và Ngài đã tạo dựng con người vì tình yêu và trong tình yêu. Không gì buộc Thiên Chúa phải tạo
dựng con người; và việc Ngài tạo dựng con người không mang lại gì thêm cho bản
tính Thiên Chúa.
Thiên
Chúa có thể không tạo dựng con nguời mà Ngài vẫn hạnh phúc tròn đầy; thế nhưng
vì yêu thương con người nên Ngài đã tạo dựng con người, và Ngài muốn con người
được hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Yn.4, 8.16).
Thiên
Chúa tạo dựng con người, vì Ngài muốn cho con nguời thông phần hạnh phúc vĩnh
cửu với Thiên Chúa.
Hạnh
phúc đích thực và vĩnh cửu của con người, không hoàn toàn nằm trong tầm tay con
người, nhưng cũng không phải là điều mà con người không thể có được. Con người
có thể sống hạnh phúc, nhưng con người không thể sống hạnh phúc thật nếu con
người muốn tách biệt hay độc lập với Thiên Chúa.
Hạnh
phúc vĩnh cửu, là thuộc tính của Thiên Chúa; hạnh phúc vĩnh cửu nơi con người
chỉ có thể có, nếu con người sống hiệp thông với Thiên Chúa, thuộc trọn về
Thiên Chúa.
Thiên
Chúa luôn luôn hạnh phúc, và chỉ những ai nên giống Thiên Chúa mới hạnh phúc
thật sự mà thôi.
“Thiên
Chúa là Tình Yêu” (1Yn.4, 8. 16). Ai yêu thương thì nên giống Thiên Chúa, và ai
không yêu thương thì không giống Thiên Chúa. Như vậy, chỉ những người sống yêu
thương mới hạnh phúc và hạnh phúc thật sự.
Thiên
Chúa tạo dựng con người “giống hình ảnh Ngài” (Stk.1,26), Ngài tạo dựng con
người tự do, Ngài tạo dựng con người có khả năng yêu thương để sống hạnh phúc
vĩnh cửu với Ngài. Thế nhưng con người “tự do” đã không sống yêu thương như
Thiên Chúa muốn, con người đã lạm dụng tự do để thù ghét và làm hại anh em mình
: đó là tội! Để con người được hạnh phúc, cần
Thiên Chúa cứu độ con người, làm cho
con người sống yêu thương: yêu Chúa và yêu người. Cứu độ con người, là làm
con người sống yêu thương, để con người giống Thiên Chúa, để con người được
hạnh phúc.
Thiên
Chúa là Tình Yêu, Ngài là Đấng chỉ biết yêu thương, và làm tất cả vì yêu
thương: “Ngài tạo dựng con người để con người sống và hạnh phúc vĩnh cửu với
Ngài”. Thực tế con người đã từ chối tình yêu của Ngài, từ chối sống thông hiệp
với Ngài, và như vậy là xúc phạm Thiên Chúa, là tội. Tuy vậy, Thiên Chúa đã
không bỏ mặc con người, Ngài tiếp tục yêu thương con người qua hành vi làm con
người trở về sống thông hiệp với Ngài, đáp trả tình yêu của Ngài.
Từ
đời đời Thiên Chúa đã biết con người từ chối Ngài, phản bội Ngài khi Ngài tạo
dựng họ “tự do”; nhưng Thiên Chúa vẫn tạo dựng con người; và Ngài có chương
trình cứu độ con người khi Ngài quyết định tạo dựng con người “tự do”. Tự do
của con người vẫn được tôn trọng và bảo vệ[3].
Các
kitô-hữu tiên khởi đã diễn tả chương trình Thiên Chúa yêu thương và cứu độ con
người qua bài ca trong thư gởi Eâphêsô của thánh Phaolô:
“Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ đức Yêsu Kitô Chúa
chúng ta.
Trong đức Kitô, từ cõi trời Người đã thi ân giáng
phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần.
Trong đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo
thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người
ta trở nên tinh tuyền thánh thiện nhờ tình thương của Người.
Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền
định cho ta làm nghĩa tử nhờ đức Yêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng
ngời, ân sủng người đã ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu.
Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra mà chúng ta
được cứu chuộc được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người.
Aân sủng này Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với
tất cả sự khôn ngoan thông hiểu.
Người cho ta được biết Thiên Ý nhiệm mầu: Thiên Ý này
là kế hoạch yêu thương Người đã tiền định từ trước trong đức Kitô.
Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn
loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là đức Kitô.
Cũng trong đức Kitô, Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi
sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ
nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt
hy vọng vào đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người.
Trong đức Kitô cả anh em nữa, anh em đã được nghe lời
chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong đức Kitô, một khi anh em đã tin,
anh em được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa.
Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta,
chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên
Chúa”(Eph.1,3-14).
Phạm
tội là từ chối Thiên Chúa và muốn độc lập với Ngài. Qua hành vi phạm tội con
người chọn và làm mình trở thành “qủy”. Điều này không hợp lý và “không hiểu
được”, nhưng đó lại là sự thật! Một điều ác điều dữ, tại sao con người vẫn
làm?!
Thiên
Chúa đã yêu thương con người ngay cả khi con người là tội nhân. Đây cũng là
điều “không hiểu được”!
Thiên
Chúa yêu thương con người, Ngài muốn con người hạnh phúc, Ngài muốn con ngưòi
trưởng thành và triển nở về mọi phương diện. Nhưng thực tế, bằng chính hành vi
phạm tội của mình, con người đã từ chối vươn lên và đã đồng hóa mình với con
vật, và đôi khi còn tệ hơn cả con vật, chẳng hạn trường hợp con nguời lợi dụng
lý trí của mình nhằm diệt hẳn một dân tộc như hành vi của Hitler đối với dân
tộc Do Thái thời đệ nhị thế chiến. Tội là xúc phạm Thiên Chúa bằng hành vi từ
chối sống yêu thương như Thiên Chúa đã muốn cho con người.
Trình
thuật “sa ngã” của sách Sáng Thế Ký chương 3 cho thấy: con người không tin rằng
Thiên Chúa yêu thương mình, mà hơn nữa lại tin vào ma qủy qua hình ảnh con rắn,
coi Thiên Chúa là Đấng lừa dối mình, cho rằng Thiên Chúa không muốn cho con
người trở thành thần linh, coi Thiên Chúa như một vị sợ con người được “ngang
hàng” với mình. Khi con người không tin vào Thiên Chúa nữa, thì con người không
còn trông cậy vào Thiên Chúa, và con người không sống trong tình yêu của Ngài
nữa. Tội là từ chối tình yêu của Thiên Chúa.
Không
ai có thể tha tội nếu không phải là chính Thiên Chúa (Mc.2,7). Quan niệm này
của người Do Thái hoàn toàn chính xác: con người không thể đền được tội mà mình
đã xúc phạm đến Thiên Chúa. Chính vì thế con người cần được Thiên Chúa cứu độ.
Con
người đầu tiên đã phạm tội cách tự do, và bây giờ con người vẫn còn tự do để
phạm tội hay không phạm tội; thế nhưng kể từ
biến cố phạm tội đầu tiên của con người đó, con người cảm thấy mình “như
thể bất lực” để làm điều tốt mình biết là nên làm hay phải làm.
Kinh
nghiệm đời sống thiêng liêng cho thấy: có nhiều lúc trong đời tôi không muốn
phạm tội, tôi không muốn làm “điều đó” nữa, nhưng rồi tôi lại đã tự do làm điều
tôi đã quyết định rằng sẽ không bao giờ làm nữa; sau khi làm điều đó rồi, tôi
lại hối hận vì mình đã làm điều đó... và rồi lại quyết định...!
Con
người đã bị ảnh hưởng bởi tội, và đặc biệt bởi tội đầu tiên đó. Con người đã bị
“yếu” kể từ khi con người phạm tội, và con người càng trở nên yếu khi con người
càng chìm sâu trong tội. Có lẽ ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về điều
này.
Kinh
nghiệm “điều tôi muốn (tôi biết là đúng, là nên làm) tôi không làm, nhưng tôi
lại làm điều tôi không muốn (tôi biết là không đúng và không nên làm)” của
thánh Phaolô (Rm.7,19), là kinh nghiệm “bất lực” của con người, và đúng hơn của
mầu nhiệm tự do của con người, của tội. Khi nói con người cảm nghiệm sự “bất
lực làm điều tốt”, người viết hoàn toàn không có ý muốn nói “con người không
còn khả năng hành thiện”, hoặc “con người mất tự do để làm điều tốt”! Con người
vẫn còn khả năng chọn lựa làm điều tốt hay điều xấu tùy họ.
Ai
cứu tôi khỏi tình trạng khốn nạn này?
“Tạ
ơn Chúa, nhờ đức Yêsu Kitô Chúa chúng ta!”(Rm.7,24-25). “Trong đức Kitô và nhờ
đức Kitô, chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi”(Eph.1,7).
Nhập
thể là sáng kiến tình yêu tuyệt vời của Thiên Chúa để cứu độ con người, bởi vì
con người không thể trả gía đền tội mình, vì con người chỉ là tạo vật: “chỉ có Con
Chiên mới xứng đáng mở sách ấy mà thôi”(Kh.5,9)! Chỉ có Con Thiên Chúa mới có
thể trả được giá “thục hồi” cho Thiên Chúa, và như vậy chỉ có đức Yêsu Kitô,
Ngôi Lời Nhập Thể, Con Thiên Chúa làm người, mới có thể cứu độ được con người
mà thôi.
Con
người từ chối Tình Yêu Thiên Chúa, con người coi thường và cho rằng mình không
cần Thiên Chúa. Thái độ khinh thường Thiên Chúa là thái độ đáng tội. Làm sao để
cứu độ con người?
Làm
sao để cứu độ con người?
Vì
con người là hữu thể tự do, nên Thiên Chúa không thể cứu độ được con người nếu
con người không chấp nhận.
Con
người được cứu độ nếu con người coi trọng Thiên Chúa và mệnh lệnh của Ngài, nếu
con người vâng phục Thiên Chúa, tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa. Cứu độ
con người, là làm cho con người cảm nghiệm được rằng Thiên Chúa yêu con người,
và đó là sứ mạng của đức Yêsu.
Cứu
độ con người là hướng dẫn và trợ giúp con người, làm sao để con người cảm được
Thiên Chúa yêu thương họ, và rồi họ đáp trả tình yêu, và như vậy là con người
được hạnh phúc, được cứu độ.
Sứ
mạng của đức Yêsu là làm sao để con người cảm được rằng Thiên Chúa yêu thương
con người. Để thực hiện công trình cứu độ này, Thiên Chúa đã có cả một chương
trình, và trải dài trong giòng lịch sử, đặc biệt là nơi dân tộc Do Thái với
lịch sử của họ.
Có
thể nói: sứ mạng của đức Yêsu là làm chứng cho Tình Yêu, là chứng nhân tình
yêu: làm cho con người cảm nghiệm Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng.
Liệu
Thiên Chúa có thể cứu độ con người mà không cần Ngôi Lời nhập thể, không cần
đức Yêsu phải chết không?
Nếu
Ngôi Lời không nhập thể, liệu con người có tin Thiên Chúa yêu con người không?
Nếu đức Yêsu không chịu chết, liệu con người có được đánh động bởi hành động và
đời sống của Ngài, để cảm nhận rằng Thiên Chúa yêu thương mình không?
Bằng
hành vi nhập thể, Ngôi Lời Thiên Chúa vĩnh viễn thành người:
·
Đức Yêsu sống hoàn toàn
như con người (trừ tội, vì tội không thuộc bản chất con người). Ngài biết đói,
biết khát, biết đau, biết khổ nhục; Ngài bị cám dỗ trong hoang địa, trong vườn
dầu, trên thập giá; Ngài bị thử thách về đức tin nhưng không bao giờ qụy ngã[4].
·
Ngài luôn nói sự thật
dù người ta không tin và không chấp nhận Ngài (Mc.2,7), dù người ta kết án tử
hình Ngài (Mc.14,62).
·
Ngài ý thức Ngài chết
vì yêu thương con người, vì Ngài hiến mạng Ngài cho con người: “không có tình
yêu nào lớn hơn tình yêu của Người hiến mạng sống mình vì bạn hữu” (Yn.15,13).
Dường
như thập giá là con đường duy nhất diễn tả tình yêu một cách thuyết phục nhất. Một cô gái có thể tin rằng một anh nào
đó nói yêu cô ta, là thực chăng? Nếu cô gái này khôn ngoan, cô ta biết mình có
thể bị lừa! Để tin lời nói của người đó có thực không, cô ta cần có thời gian
để nghiệm xét: chính qua hành động và đời sống, chứ không chỉ bằng lời nói, mà
cô ta biết được anh ta có yêu cô ta thực không! Chính nhờ hành động, xem người
đó có hy sinh quên mình vì tôi không, xem người đó có muốn tôi được hạnh phúc
thực không, mà tôi nhận biết người đó có yêu tôi thực không. Cũng tương tự như
vậy, qua việc Đức Yêsu dám chết vì yêu con người, mà con người tin biết rằng
Ngài yêu con người, và nhờ Ngài mà con người cũng biết rằng Thiên Chúa yêu con
người vô cùng.
Tội
là coi thường Thiên Chúa, không tin Thiên Chúa, không trông cậy gì nơi Ngài,
không vâng phục Ngài! Nhưng Thiên Chúa luôn yêu thương con người, Ngài sẵn sàng
tha thứ tội lỗi con người đã xúc phạm đến Ngài, Ngài mong muốn con người trở
lại với Ngài, để con người được hạnh phúc. Khi con người trở lại với Ngài, rung
động trước tình yêu của Thiên Chúa đối với mình, trân trọng Thiên Chúa, tín
thác nơi Thiên Chúa, vâng phục Thiên Chúa trong mọi sự..., thì con người được
cứu độ.
Rung
động trước tình yêu của đức Yêsu và của Thiên Chúa đối với con người, hối hận
vì tội lỗi mình, ao ước đáp trả tình yêu Thiên Chúa bằng chính cuộc sống mình,
đó là khởi đầu ơn cứu độ. Chính tình yêu của Thiên Chúa đối với con người và
làm con người đáp trả tình yêu Thiên Chúa, làm cho con người được sống, và sống
tròn đầy, sống hạnh phúc.
Tình
yêu không chỉ là cảm giác, và tình yêu cũng không chỉ là lý trí. Tình yêu diễn
tả và cảm nhận bằng cả lý trí và thân xác. Con người cần cảm nghiệm Thiên Chúa
yêu thương mình bằng cả con người, để
mình sống một đời đầy ý nghĩa, và được hạnh phúc.
Cứu
độ con người là chương trình của cả Ba Ngôi Thiên Chúa:
·
Thiên Chúa Cha như nguồn
gốc mọi sự, là sáng kiến của chương trình;
·
Thiên Chúa Con như Lời
thực hiện chương trình qua hành vi nhập thể vĩnh viễn;
·
Và Thánh Thần hoạt
động trong tâm hồn mỗi người để dẫn đưa
con người trở về với Thiên Chúa[5]. Thánh Thần
giúp các tông đồ hiểu Lời của đức Yêsu (Yn.14,26), dẫn đưa các tông đồ vào tất
cả sự thật (Yn.16,13), giúp các tông đồ làm chứng cho đức Yêsu (Yn.15,26-27).
Thánh Thần hoạt động trong Hội Thánh để giúp các Kitô-hữu sống đức tin, và giúp
các Kitô-hữu rao giảng tuyên xưng đức Yêsu Phục Sinh là Thiên Chúa.
Con
người là tạo vật được Thiên Chúa yêu thương, nên cứu độ con người là công việc
quan trọng đối với Thiên Chúa.
Thiên
Chúa yêu thương con người, và yêu con người vô cùng. Thiên Chúa Cha yêu con
người như yêu chính Con Một của Ngài (Yn.17,23), và Ngài yêu con người đến độ
ban Con của Ngài cho con người (Yn.3,16). Chúa Yêsu yêu con người như Thiên Chúa Cha yêu Ngài (Yn.15,9), và Ngài
yêu con người đến độ hiến mạng sống bản thân Ngài cho con người (Yn.15,13), và
còn biến bánh rượu thành thân xác Ngài để trở thành của ăn của uống cho
chúng ta.
Chính
vì yêu thương con người nên Thiên Chúa luôn ở với con người:
·
“Nơi nào có hai hay ba
người họp nhau vì danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ” (Mt.18,18). “Này đây Thầy ở
cùng anh em cho đến tận thế” (Mt.28,20);
·
“Ai yêu mến Ta thì giữ
Lời Ta, Cha Ta sẽ yêu thương người đó, và chúng ta sẽ đến và ở với người đó”
(Yn.14,23);
·
“Thầy sẽ xin Cha, và
Ngài sẽ ban cho các con một Đấng Bầu Chữa khác, để Ngài ở với các con luôn mãi”
(Yn.14,16).
Yêu
nhau, người ta muốn ở gần nhau. Thiên Chúa muốn ở với chúng ta, và Ngài muốn
chúng ta ở trong tình yêu của Ngài (Yn.15,9). Thiên Chúa ở với chúng ta để cứu
độ chúng ta, để chúng ta sống hạnh phúc với Ngài.
“Sự
sống đời đời là chúng nhận biết Cha và đức Yêsu Đấng Cha sai” (Yn.17,3).
Để
sống hạnh phúc tròn đầy, con người cần biết mình đang hạnh phúc. Chúa Thánh
Thần là thầy dạy chúng ta, Ngài giúp chúng ta nhận ra sự thật cứu độ: ”Thánh
Thần sẽ dẫn chúng con vào tất cả sự thật” (Yn.16,13). Không có Thánh Thần, con
người không thể làm gì tốt, ngay cả việc tin đức Yêsu là Thiên Chúa: “Không ai
tuyên xưng đức Yêsu là Kitô, nếu không bởi Thánh Thần” (1Cor.12,3).
Thánh
Thần giúp con người tin vào đức Yêsu và tin vào Thiên Chúa, giúp con người cầu
nguyện than thở với Thiên Chúa (Rm.8,26-27), giúp con người sống bình an hạnh
phúc, giúp con người hưởng ân phúc cứu
độ.
“Không
ai có thể đến với Ta, nếu Cha, Đấng đã
sai Ta, không lôi kéo nó, và Ta sẽ cho nó sống lại ngày sau hết” (Yn.6,44).
Con
người không thể tự cứu chính mình, nhưng chính Thiên Chúa cứu độ con người:
Thiên Chúa cứu độ con người nhưng cần con người ưng thuận cách tự do.
Chính
Thiên Chúa lôi kéo con người đến với Thiên Chúa, chứ không phải con người tự
mình có khả năng đến với Thiên Chúa. Thiên Chúa lôi kéo con người, và con người
ưng thuận để Thiên Chúa lôi kéo mình đến với Ngài. Lôi kéo con người đến với
Thiên Chúa mà con người vẫn hoàn toàn tự do, đó là đặc điểm của Thiên Chúa.
Thiên
Chúa là Tình Yêu, Thiên Chúa yêu con người, nên “Ngài muốn tất cả mọi người
được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm.2,4). Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể
làm người để ở mãi với con người theo cách thức mà con người lãnh hội được;
Thánh Thần Thiên Chúa luôn hoạt động trong con người để lôi kéo con người đến
với Thiên Chúa, để làm con người rung cảm trước tình yêu Thiên Chúa, để con
người có thể sống an bình và phó thác tất cả trong tay Thiên Chúa, để con người
được hạnh phúc.
Tuy
con người hoàn toàn tự do nhưng Thiên Chúa lại rất tuyệt vời: Ngài chinh phục con người bằng tình yêu.
Thiên
Chúa yêu thương con người, Ngài muốn những điều tốt lành cho con người, Ngài
muốn con người được hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. Sở dĩ như vậy, bởi vì khi yêu,
người ta muốn cho người mình yêu được những điều tốt lành, được hạnh phúc đích
thực.
Thiên
Chúa muốn con người được sống hạnh phúc tròn đầy với Ngài: “Ta đến để chúng
được sống, và sống sung mãn” (Yn.10,10).
Thiên
Chúa Cha đã ban Con Ngài cho con người (Yn.3,16), Chúa Con đã ban chính mình
Ngài cho con người qua bí tích Thánh Thể và bằng hành vi chết cho người mình
yêu (Mc.14,24-25; Yn.15,13), Thánh Thần hiện diện với con người như quà tặng
của Ba Ngôi (Yn.14,16).
Để
hạnh phúc và cảm nghiệm hạnh phúc, cần có tự do.
Thiên
Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. Chính vì vậy, Ngài chỉ mời gọi và đề
nghị, còn tùy con người có đáp trả hay không.
Thiên
Chúa tôn trọng ý muốn của con người; ngay cả khi con người không đáp trả lại
tình yêu của Ngài, không làm theo ý muốn của Ngài, thì Ngài vẫn kiên nhẫn chờ
đợi, Ngài vẫn luôn tác động để con người trở lại với Ngài, hầu con người được
sống hạnh phúc đích thực.
Khi
yêu nhau, họ trở nên một, một thân xác một tinh thần. Nói một cách chính xác,
những người yêu nhau đều hướng tới hiệp nhất dù mỗi cá vị vẫn được tôn trọng và
duy trì: “Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai”. Hai người
yêu nhau, sẽ được hạnh phúc hơn khi họ cùng lý tưởng, cùng ước muốn và đồng cảm[6].
Chúa
Yêsu yêu Chúa Cha, nên đã lấy Ý Cha làm ý Ngài (Mc14,36), đã lấy Ý Cha làm của
ăn (Yn.4,34). Cũng tương tự như vậy, khi con người yêu Thiên Chúa, sẽ lấy ý
Thiên Chúa làm ý mình, sẽ vâng giữ Lời Ngài: “Ai yêu mến Ta thì giữ Lời Ta, Cha
Ta sẽ yêu mến người đó, và chúng ta sẽ đến và ở nơi người đó” (Yn.14,23).
Con
người chỉ có thể nên một với Thiên Chúa trong cầu nguyện, nếu con người đã cố
gắng để nên một với Thiên Chúa trong suốt đời sống thường ngày.
Trong
tình yêu người ta thường nghe nói, “Anh là tất cả với em” hoặc “Em là tất cả
với anh”. Khi hai người yêu nhau, người này là qúy nhất với người kia. Chính vì
thế, ý kiến hay ý thích của người yêu rất được coi trọng.
Ai
càng yêu thì càng yếu, vì khi yêu người ta muốn chiều lòng người mình yêu, để
thấy người yêu hạnh phúc và mình cũng được hạnh phúc vì người mình yêu hạnh
phúc.
Khi
yêu nhau, người ta tin tưởng lẫn nhau và có thể tin tưởng cậy nhờ người mình yêu,
vì mình tin rằng người mình yêu sẽ làm theo ý mình. Khi yêu, người ta tin tưởng
trông cậy lẫn nhau.
Tội là coi thường và không tin tưởng trông
cậy gì nơi Thiên Chúa, còn yêu Thiên Chúa là trân trọng và tin tưởng phó thác
đời mình trong tay Thiên Chúa là Đấng yêu thương mình.
Tin
rằng Thiên Chúa yêu thương mình, và Ngài sẽ làm cho mình những điều tốt lành
nhất, và như vậy mình sẽ bình an hạnh phúc để phó thác đời mình trong tay Thiên
Chúa.
Con
người không có tự do tuyệt đối, nhưng con người chỉ tự do trong hành động của
mình.
Là
tinh thần nhập thể, nên con người trở thành tinh thần qua thân xác, nghĩa là,
con người được mời gọi vượt lên những khuynh chiều xác thịt để thành nhân, để
nên thánh, để sống như Thiên Chúa muốn, để thuộc trọn về Thiên Chúa.
Lý
trí con người với những hình ảnh được cảm thụ qua giác quan, do tác động bởi
những khuynh chiều thân xác, làm nên trí tưởng tượng. Trí tưởng tượng thuộc về
“tôi”, cấu thành con người tôi, nhưng “tôi” không chỉ là nó; tôi hoàn toàn tự
do để ưng thuận hay từ chối những gì hiện đến trong trí tưởng tượng của tôi.
Con người là linh hồn và thân xác.
Con người là chủ vị với thân xác. Tôi xét như thân xác, có những khuynh chiều
đòi thỏa mãn, như đói cần ăn khát cần uống, nhu cầu thỏa mãn sinh lý; tôi xét
như sinh vật bậc cao, cũng có khuynh hướng muốn được kính trọng, nổi tiếng.
Là người, tôi cảm thấy mình có những
nhu cầu và đòi hỏi như vậy nơi chính bản thân; khi tôi cảm thấy những đòi hỏi
đó nơi mình, không hàm chứa rằng tôi “thấp hèn”; tôi tự do, tôi có thể ưng
thuận hay từ chối làm theo những đòi hỏi đó.
Khi
nào còn sống trên dương thế này, tôi còn cảm thấy những đòi hỏi của thân xác và
lý trí. Những khuynh chiều như thế là bình thường; đó là thân phận con người
trong điều kiện tại thế. Tuy nhiên, con người xét như chủ vị hoàn toàn tự do,
có thể “siêu vượt” trên những “cám dỗ”, trên những khuynh chiều này.
Con
người, trở nên người tự do đích thực hay nô lệ vật chất, trở nên thánh nhân hay
như con vật, là do chính con người. Chính bằng hành vi siêu vượt hay thuận theo cám dỗ, mà con người là “thần” hay “vật”,
trở nên thần linh hay sống như “con vật”.
Bị
cám dỗ và thử thách nhiều, không có nghĩa là mình thiếu quảng đại với Chúa,
hoặc mình “xấu xa thấp hèn”. Đức Yêsu cũng bị cám dỗ nhiều và mãnh liệt
(Mt.4,1-11; Mc.14,32 tt), Ngài bị cám dỗ cả trong lãnh vực đức tin (Mc.15,34),
Ngài đã chiến đấu chống trả cám dỗ đến nỗi mồ hôi máu chảy ra (Lc.22,44). Đức
Maria cũng bị thử thách nhiều trong cuộc sống, nhưng Mẹ vẫn tin tưởng phó thác
trong tay Thiên Chúa dù không biết Lời Chúa phán cùng Mẹ sẽ được thực hiện thế
nào, nhất là khi Mẹ chứng kiến đức Yêsu chết ô nhục thảm thương trên thập giá
(Lc.1,26-38.45; Yn.19,25-27).
Cám
dỗ và thử thách là những dịp để con người tại thế siêu vượt trên chính mình, để
con người là tinh thần hơn, nên thánh và thuộc trọn về Chúa hơn.
Đức
Yêsu chiến thắng cám dỗ, và như vậy chúng ta tin tưởng rằng con người tại thế
có thể vượt thắng cám dỗ nếu con người tin tưởng phó thác trong tay Thiên Chúa.
Là con người, không có nghĩa là buộc phải phạm tội. Phạm tội hay không, tùy con
người tự do: con người có thể không phạm tội.
Để
con người được cứu độ, Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể làm chứng cho tình yêu,
hầu con người nhận biết Thiên Chúa yêu thương mình vô cùng, để rồi yêu lại
Thiên Chúa.
Con
người khi tin nhận đức Yêsu là Thiên Chúa, thì nhận ra tình yêu thương vô bờ
của Thiên Chúa đối với mình. Rồi khi con người tin nhận rằng Thiên Chúa yêu
thương mình vô cùng, con người có thể phó thác đời mình trong tay Thiên Chúa
Tình Yêu.
Cầu
nguyện là một cách để thông hiệp với Thiên Chúa Tình Yêu trong cuộc sống thường
ngày của con người, để con người sống hạnh phúc với Thiên Chúa.
Thiên
Chúa luôn yêu thương tôi dù tôi có biết và có ý thức về điều đó hay không.
Thiên Chúa luôn nhìn xem tôi và can thiệp vào đời tôi một cách kịp thời, vì
Ngài luôn yêu thương tôi. ”Ngài chặn tôi trước, Ngài ngừa tôi sau... bàn tay
của Ngài đặt trên tôi” (Tv.139,5).
Khi
cầu nguyện người ta cần ý thức Thiên Chúa đang hiện diện và yêu thương mình.
Như vậy trong suốt ngày, nếu tôi làm việc mà vẫn luôn ý thức Thiên Chúa đang
sống với tôi, thì tôi cũng đang cầu nguyện và đang kết hiệp với Thiên Chúa một
cách nào đó.
Ý
thức Thiên Chúa đang sống với mình trong đời sống thường ngày, không đòi chúng
ta phải ngừng công việc mình đang làm. Trong cả ngày, chúng ta vẫn làm việc
bình thường trong tâm trạng “Thiên Chúa ở bên mình và làm việc với mình”.
Cầu nguyện là lắng nghe Thiên Chúa
Thiên
Chúa nói với mỗi người chúng ta qua lương tâm mỗi người, qua những biến cố xảy
tới với mình trong đời, qua Lời Chúa trong Kinh Thánh...
·
Chúa nói với tôi, tôi
có lắng nghe?
·
Thái độ đáp trả của tôi
với Lời Ngài như thế nào? Tôi vâng phục, hay từ chối, hay lẩn tránh? Tôi có
sống theo Lời Chúa nói với tôi không?
Cầu nguyện là thân thưa với Chúa
Khi
tôi thấy con người của tôi dưới ánh sáng Lời Chúa, tôi hãy nói với Ngài những
gì Thánh Thần soi sáng và thúc đẩy trong lòng tôi. Nếu tôi có những bận tâm và
ao ước, tôi hãy nói với Chúa, để Lời Chúa như gươm hai lưỡi phân tách
(Dt.4,12), để tôi được tinh sạch hơn (Yn.17,17) và tự do hơn (Yn.8,32).
Có
nhiều người mong ước kết hiệp với Thiên Chúa trong giờ cầu nguyện. Đây là ao
ước chính đáng và tốt lành thánh thiện. Nhưng làm sao có thể kết hiệp với Thiên
Chúa trong cầu nguyện?
Khao khát ước mong kết hiệp với Thiên Chúa
Để
hiệp nhất với Thiên Chúa trong giờ cầu nguyện, đòi người đó luôn khao khát mong
ước kết hiệp với Thiên Chúa. Chính lòng khao khát ước mong, sẽ giúp người đó
luôn kết hiệp với Thiên Chúa trong cuộc sống thường ngày bằng việc chấp nhận
thánh ý Chúa ngay cả khi điều đó trái ý mình, và nếu được như vậy, sẽ giúp
người đó kết hiệp với Thiên Chúa trong giờ cầu nguyện.
Có
người cho rằng họ đã đạt đến mức kết hiệp với Thiên Chúa cách rất đặc biệt
trong cầu nguyện, nhưng trong cuộc sống thực tế cho thấy người đó rất khó sống
với người khác, và họ thường “khá kiêu ngạo”! Thánh Y-nhã lưu ý một số anh em
Dòng Tên: “cầu nguyện lâu giờ mà không có tinh thần hy sinh từ bỏ, thì chỉ làm
cho người ta thêm cứng đầu”.
Để
có thể kết hợp với Thiên Chúa trong giờ cầu nguyện, người ta cần phải liên lỉ
kết hiệp với Thiên Chúa trong suốt ngày sống. Họ phải luôn từ bỏ ý riêng để
vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa, để yêu thương và chấp nhận anh em, để thông cảm
với những giới hạn của anh em và những trái ý từ bên ngoài đưa tới. Một người
cho rằng mình đã có thể kết hiệp dễ dàng với Thiên Chúa trong cầu nguyện mà
không có đời sống từ bỏ và yêu thương, e rằng đó là người “ảo tưởng”, và chưa
biết mình cách sâu xa và đích thực.
Đồng hình đồng dạng với Ngài
trong tư tưởng lời nói và hành động
Để
kết hiệp với Thiên Chúa trong giờ cầu nguyện, cần kết hiệp với Thiên Chúa trong
suốt ngày sống. Sống đời sống “từ bỏ” qua yêu mến đức khó nghèo và sẵn sàng
chịu xỉ nhục và khinh chê vì ChúaYêsu Kitô, chấp nhận Thánh Ý Chúa trong suốt
ngày sống. Nói cách khác, cuộc sống “đồng hình đồng dạng” với Đức Yêsu trong tư
tưởng, lời nói và hành động, sẽ giúp người đó kết hiệp với Thiên Chúa sâu xa
hơn trong giờ cầu nguyện.
Suy nghĩ, và ngay cả suy nghĩ về
những sự thiêng liêng và thần học, cũng chưa là cầu nguyện.
Cầu nguyện là nói chuyện, thân thưa
hoặc tâm sự với Thiên Chúa. Nếu một suy nghĩ giúp mình tâm sự thân thưa với
Thiên Chúa, thì suy nghĩ đó cũng thuộc về cầu nguyện; chẳng hạn, sau một suy
nghĩ, một người có thể thấy một ánh sáng nào đó, và điều này giúp họ tạ ơn
Thiên Chúa hay nói chuyện với Thiên Chúa hay nài xin Thiên Chúa điều gì đó, thì
suy nghĩ đó cũng là cầu nguyện.
Điểm chính yếu của cầu nguyện không
là có nhiều ý tưởng phong phú, nhưng là tâm tình và thái độ của mình đối với
Thiên Chúa.
Xét
gẫm là lượng giá giờ cầu nguyện, nhằm giúp mình thấy được những ơn lành đã nhận
lãnh trong giờ cầu nguyện để tạ ơn Chúa, và biết được những “nguyên nhân nơi
chính mình” đã làm cho giờ cầu nguyện không được tốt đẹp, để sửa đổi.
Thiên Chúa muốn con người sống bình
an hạnh phúc, không chỉ ở đời sau nhưng còn ngay cả ở đời này nữa. Thiên Chúa
muốn con người sống bình an hạnh phúc trong mọi thời điểm của cuộc sống, và đặc
biệt trong giờ cầu nguyện. Có thể nói, tình trạng “an ủi thiêng liêng” là tình
trạng bình thường trong đời sống cầu nguyện; nghĩa là, trong và sau cầu nguyện,
con người được bình an hơn, được thư thái và hạnh phúc hơn, và thấy tin tưởng
và trông cậy cùng yêu mến Thiên Chúa hơn.
Thiên Chúa muốn con người sống bình
an hạnh phúc, nhưng ma qủy- kẻ từ chối Tình Yêu Thiên Chúa và chống lại Thiên
Chúa- muốn con người về phe nó chống lại Thiên Chúa, nên tìm mọi cách ngăn cản
con người sống bình an và hạnh phúc với Thiên Chúa.
Người thường sống trong tình
trạng tội
Thiên
Chúa muốn người đang ở trong tình trạng tội trở về với Ngài, Ngài luôn hành
động trong thâm sâu tâm hồn mỗi người để làm họ trở về với Ngài, qua tiếng nói
của lương tâm và qua những dấu chỉ hữu hình.
Thần
dữ hành động ngược lại. Nó tìm mọi cách để người đó ở lại trong tội, chẳng hạn
bằng gợi lên những hình ảnh gây vui thú giác quan...
Người đang tiến trên đường
thiêng liêng
Thiên
Chúa vẫn tiếp tục lôi kéo mỗi người, để họ tiến tới hơn trên đường phụng sự
Chúa. Các thần lành cũng trợ giúp, để con người cảm nhận bình an và hạnh phúc,
để họ vui tiến trên đường thiêng liêng.
Thần
dữ tìm mọi cách và mọi lý do “ngụy biện” để ngăn cản con người tiến tới, gây
bất an và xáo động nơi tâm hồn con người.
Sau khi cầu nguyện, người cầu nguyện
dùng một thời gian ngắn để xét gẫm, xem giờ cầu nguyện của mình thế nào! Nếu
không tốt[9] hoặc không tốt lắm, thì đâu là nguyên do? Và một khi
đã nhận ra thì cố gắng sửa đổi (chính mình), để giờ cầu nguyện tiếp sau được
tốt đẹp hơn.
Nếu tìm đúng nguyên do và được chỉnh
đốn, thì giờ cầu nguyện tiếp sau sẽ tốt đẹp hơn. Có thể nhờ người có kinh
nghiệm thiêng liêng cùng nhận định với mình, bằng cách chia sẻ kinh nghiệm xét
gẫm cho họ nghe, để họ giúp mình tìm được nguyên do đã làm mình cầu nguyện
không được, cách chính xác và chắc chắn hơn.
Có thể do mình thiếu quảng đại với
Chúa trong giờ cầu nguyện hay trong cả ngày sống, mà mình cầu nguyện không được
tốt.
Nếu mình không cố gắng tập trung để
cầu nguyện, hoặc nếu không xua đuổi ngay các chia trí đến trong giờ cầu nguyện,
không đặt Thiên Chúa lên trên hết, thì cũng khó cầu nguyện “tốt”.
Nếu trong ngày mình không hy sinh và
kết hiệp với Thiên Chúa liên lỉ, thì cũng khó cầu nguyện. Để dễ dàng cầu
nguyện, con người cần luôn kết hiệp với Thiên Chúa trong suốt ngày sống.
Do còn bám
víu vào tạo vật (tình cảm lệch lạc)
Có
thể do còn bám víu vào một tạo vật nào đó, mà mình cầu nguyện không được “tốt”.
Khi
ta còn đặt một tạo vật nào trên hoặc bằng Thiên Chúa, dù ý thức hay không ý
thức, thì cũng khó cầu nguyện. Như vậy nếu mình cầu nguyện không được, hãy xem
mình có cố gắng quảng đại hết sức để cầu nguyện chưa; nếu đã cố gắng “hết sức”
rồi mà vẫn cầu nguyện không được, thì xem mình còn quyến luyến điều gì cách
lệch lạc không, và khi nhận ra thì hãy quảng đại để chỉnh đốn lại.
Một
người có thể không cầu nguyện được, vì họ nhận thức sai lầm: họ tưởng rằng cầu
nguyện được hay không là do sức con người. Vì vậy, Thiên Chúa có thể để họ cầu
nguyện không được, nhằm giúp họ nhận ra một sự thật: “cầu nguyện được, là một
ơn Thiên Chúa ban cho con người”.
Một người có thể bị sầu khổ thiêng
liêng mà không phải do lỗi của họ (LT.322b).
Nếu mình cầu nguyện không được, bị
sầu khổ thiêng liêng, mà không tại lỗi mình, thì hãy kiên trì và quảng đại. Lúc
đó chủ quan mình thấy mình cầu nguyện không được tốt lắm, nhưng khách quan thì
vẫn tốt, vì lúc đó Thiên Chúa đang tôi luyện mình, Ngài tập cho mình đến với
Ngài vì chính Ngài chứ không phải vì mình được an ủi; tuy chủ quan mình thấy
mình cầu nguyện không được sốt mến, nhưng khách quan thì mình vẫn trưởng thành
hơn về đức tin đức cậy và đức mến.
Có thể xảy ra là trong một thời điểm
một người cảm thấy mình bị cám dỗ nhiều về một điều gì đó, và thường đó là điểm
yếu của mình, thì người đó nên xét mình để tìm coi nguyên nhân tại sao.
Do thiếu
dứt khoát chống trả hoặc thiếu tình yêu
Có
thể bởi vì mình thiếu dứt khoát trong việc chống trả với chước cám dỗ , và như
vậy tình yêu của mình đối với Thiên Chúa đã bị giảm sút.
Trong
trường hợp này hãy xin lỗi Chúa, và bắt đầu sống quảng đại hơn với Chúa trong
từng giây phút sống.
Cũng là dịp để lập công, để nên thánh hơn
Khi
còn sống trong thân xác, chúng ta còn bị cám dỗ và thử thách; những cám dỗ đó
có thể là những dịp để chúng ta diễn tả tình yêu của mình với Thiên Chúa cách
cụ thể hơn.
Không
ai được miễn trừ khỏi bị cám dỗ và thử thách:
·
Đức Yêsu không chỉ bị
cám dỗ trong hoang địa (Mt.4,1-11), Ngài còn bị thách thức để làm những phép lạ
từ trời, bị cám dỗ và thử thách trong vườn dầu (Mc.14,32tt),bị thử thách cả về
đức tin ngay trên thập giá (Mc.15,34);
·
Đức Maria không chỉ
thưa tiếng xin vâng trong biến cố truyền tin (Lc.1,26tt), nhưng còn thưa tiếng
xin vâng trong suốt cuộc đời, đặc biệt trong biến cố Mẹ đứng dưới chân thập
giá;
·
Thánh Phaolô đã ba lần
xin Chúa cất cái dằm ra khỏi xác thịt Ngài, nhưng Ngài được trả lời “ơn Ta đủ
cho con” (2Cor.12,7-9).
Thử
thách và cám dỗ trong cuộc sống tại thế, là thuộc thân phận làm người của chúng
ta; chúng ta hãy chấp nhận, và can đảm đương đầu đểø vượt qua. Chúa không miễn
trừ cho chúng ta khỏi bị cám dỗ, nhưng Chúa bảo đảm rằng nếu chúng ta tin tưởng
và cậy dựa vào Ngài, thì chúng ta sẽ chiến thắng: “Các con hãy tin tưởng, Ta đã
thắng thế gian” (Yn.16,33).
Xét
mình để nhận ra những hồng ân Thiên Chúa đã ban cho mình, cũng như những lỗi
lầm mình đã phạm, để tạ ơn và xin lỗi Thiên Chúa, để sống tốt hơn.
Xét mình là việc thiêng liêng rất quan
trọng, nếu muốn tiến bộ không ngừng trong đời sống thiêng liêng và thân thiết
với Thiên Chúa mỗi ngày hơn.
Theo
thói quen người ta vẫn cho rằng xét mình chỉ nhằm nhận ra những lỗi lầm khuyết
điểm của mình để ăn năn sám hối; tuy nhiên việc nhận ra những ơn lành Thiên Chúa ban cho mình trong đời sống thường
ngày rất quan trọng, để luôn sống trong ý thức và tâm tình Thiên Chúa luôn yêu
thương và hiện diện với mình.
Nhận
ra những hồng ân Thiên Chúa ban cho mình, là dấu chỉ của một đời sống thiết
thân với Thiên Chúa. Càng nhận biết hồng
ân Thiên Chúa, càng thuộc về Thiên Chúa hơn.
Nhận
ra những lỗi lầm của mình để sửa đổi, là điều chính yếu của việc xét mình.
Trong
xét mình, chúng ta không chỉ nhằm nhận ra những lỗi lầm khuyết điểm của mình,
nhưng còn nhận ra những khuynh chiều tàng ẩn của mình, để có thể tránh được
những lỗi phạm nghiêm trọng hơn! Tại sao tôi làm điều này chứ không phải điều
kia, ngay cả khi điều tôi làm chưa phải là tội? Cái tàng ẩn hay khuynh chiều
đằng sau hành động đó là gì?
Tại
sao tôi hay bị cám dỗ về điều này? Tại sao tôi bị cám dỗ về điều này dai dẳng
và mãnh liệt như vậy? Phải chăng vì tôi chưa có thái độ hay lập trường dứt
khoát với điều này (với khuynh chiều này, với tội này)? Hay tại vì tình yêu của tôi với Thiên Chúa
đã bị phai lạt và giảm sút? Tôi cần nhận ra những điều đó, để có quyết định và
thái độ cụ thể nhằm tiến bộ hơn nữa trong đời sống thiêng liêng.
Nếu
có nhiều giờ cho việc xét mình, thì sau khi đã nhận ra những hồng ân Thiên Chúa
ban và những lỗi lầm mình đã phạm mất lòng Thiên Chúa, chúng ta nên dùng thời
gian còn lại để nói chuyện thân thưa với Thiên Chúa dựa vào những hồng ân và
những lỗi lầm của mình. Đây là những phút cầu nguyện dựa vào đời sống ngày qua
của mình.
HOME CHIA SẺ LỜI CHÚA LINH ĐẠO THẦN HỌC ĐỜI SỐNG SOME THEMES IN
ENGLISH
HIỆN
TẠI MỚI QUAN TRỌNG BẠN ĐƯỜNG LINH THAO
ĐỂ TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC HƠN
LINH
THAO MƯỜI NGÀY LINH THAO TRONG CUỘC SỐNG ĐẶC SỦNG DÒNG TÊN SÁCH LINH THAO
CỦA THÁNH YNHÃ
Chúc bạn an vui hạnh phúc.
phamthanhliem
[1] Tự mình và do mình: tự do mình.
[2] Quan niệm dân gian Việt Nam cũng không đồng ý quan điểm này, vì “Đức nhân thắng số”. Một người ăn ở có đức có thể đổi được “số mạng”. Mà nếu có thể đổi số mạng, thì không còn là tất định nữa! Quan niệm “Đức nhân thắng số”, là quan niệm đúng đắn, bảo vệ tự do của con người.
[3] Có người nghĩ rằng nếu Thiên Chúa biết rõ con người sẽ chống lại Ngài thì con người đâu còn tự do nữa! Trước vấn nạn này chúng ta cần xác định rõ: Thiên Chúa muốn, Thiên Chúa biết, nhưng con người vẫn tự do. “Thiên Chúa muốn cho tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý”(1Tm.2,4): Thiên Chúa không muốn con người phạm tội nhưng con người vẫn có thể phạm tội vì con người tự do. Thiên Chúa toàn năng toàn tri, nhưng con người vẫn tự do. Hai mệnh đề trên không mâu thuẫn nhau!
[4] “Lạy Thiên Chúa, sao Ngài nỡ bỏ con?” (Mc.15, 34)
“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc.23,46).
[5] “Thầy sẽ xin Cha, và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng Bầu Chữa khác, để Ngài ở với các con luôn mãi”(Yn.14,16).
[6] “Yêu là cùng nhìn về một hướng”
Tình yêu bao hàm tình bạn: vợ chồng gọi nhau là “bạn đời”.
[7] Các bước gợi ý cho một lần cầu nguyện:
1. Sau khi đã chọn địa điểm tốt nhất để cầu nguyện như mình thấy, đến chỗ đó, và ý thức mình hiện diện trước Thiên Chúa Ba Ngôi, rồi kính cẩn chào Chúa (diễn tả với thân xác nếu không có gì ngăn trở).
2. Xin Chúa Cha ban Thánh Thần của Chúa Yêsu Phục Sinh cho mình , để Ngài thanh tẩy mình, để Ngài giúp mình bỏ những vướng bận đặc biệt trong giờ cầu nguyện này, và xin Ngài giúp mình gặp gỡ Thiên Chúa.
3. Đặt khung cảnh (vì thân phận con người, chúng ta đến với Thiên Chúa qua những gì hữu hình).
4. Ơn xin (Mỗi bài cầu nguyện đều có ơn xin; Thao viên cần khao khát điều này trước khi xin).
5. Điểm
6. Tâm sự với Chúa (Sau mỗi điểm, chúng ta nên tâm sự với Chúa, chứ không nhất thiết phải chờ đến cuối giờ cầu nguyện, vì các điểm gợi ý chỉ là phương tiện giúp chúng ta gặp gỡ và tâm sự cùng sống hạnh phúc với Chúa ).
[8] Gợi ý giúp xét gẫm:
1. Tôi được gì trong giờ cầu nguyện vừa qua?
Bình an? Thư thái hạnh phúc? Sốt sắng? Được đánh động ở điểm gì nhất? Được ơn gì đặc biệt?
2. Tôi có hài lòng với giờ cầu nguyện không?
3. Nguyên do làm tôi không hài lòng lắm với giờ cầu nguyện?
· Bị chia trí? Chia trí về điều gì? Nó có phản ánh một vướng bận hay quyến luyến lệch lạc của tôi không?
· Thiếu quảng đại? Do thiếu tình yêu?
· Mất bình an? Dấu chỉ có trục trặc cần sửa chính mình?
4. Tâm sự với Chúa dựa vào những ơn mình nhận được hay do những lỗi lầm mình mắc phải.
[9] Giờ cầu nguyện không tốt, tốt, hay tốt lắm, là đánh giá chủ quan hay khách quan của người cầu nguyện hay của người hướng dẫn.
[10] Gợi ý giúp xét mình:
1. Ý thức mình hiện diện trước nhan Chúa và kính cẩn chào Chúa
2. Xin Thiên Chúa ban Thánh Thần để Ngài giúp mình ...
3. Ơn lành
· Xin ơn nhận ra những ơn lành mình đã nhận lãnh từ lần xét mình lần trước cho tới bây giờ
· Xét mình để nhận ra những ơn lành đã lãnh nhận
· Tạ ơn Chúa
4. Lỗi lầm
· Xin ơn để nhận ra những lỗi lầm khuyết điểm
· Xét mình để nhận ra lỗi lầm của mình từ lần xét mình lần trước cho tới bây giờ
· Ăn năn thống hối xin lỗi Chúa
5. Tâm sự thân thưa với Chúa dựa vào những ơn lành mình đã nhận và những lỗi lầm khuyết điểm mình đã phạm.