HOME CHIA SẺ LỜI CHÚA LINH ĐẠO THẦN HỌC ĐỜI SỐNG SOME THEMES IN ENGLISH
HIỆN TẠI MỚI QUAN TRỌNG BẠN ĐƯỜNG LINH THAO ĐỂ TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC HƠN
LINH THAO MƯỜI NGÀY LINH THAO TRONG CUỘC SỐNG ĐẶC SỦNG DÒNG TÊN SÁCH LINH THAO CỦA THÁNH
YNHÃ
ĐỂ TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC HƠN
Jptl
MỤC LỤC:
2). Những đoạn văn Kinh Thánh có thể dùng để cầu nguyện trong chủ đề này
2). Những đoạn Kinh Thánh dùng cầu nguyện
C. LỜI MỜI
GỌI CỦA VUA HẰNG
SỐNG
2). Những đoạn Kinh Thánh có thể dùng
D. LỜI THIÊN CHÚA THỰC HIỆN SỨ MẠNG CHA TRAO PHÓ
2). Những bản văn dùng cầu nguyện
2). Những bản văn Kinh Thánh có thể dùng cầu nguyện
2). Bản văn Kinh Thánh được dùng
2). Bản văn Kinh Thánh được dùng
H. CHIÊM NIỆM ĐỂ ĐƯỢC TÌNH YÊU
2). Xin Chúa làm cho con yêu Chúa
*** ĐỂ DUY TRÌ VÀ PHÁT TRIỂN
ƠN LINH THAO
1). Luôn sống đời sống thường ngày với ý thức Thiên
Chúa luôn hiện diện và yêu thương mình
2). Vui nhận Ý Chúa làm ý mình
Theo
thánh Y-nhã, Linh Thao gồm bốn tuần. Tuần thứ nhất cầu nguyện về tội, tuần thứ
hai về cuộc đời Chúa Yêsu cho tới ngày Ngài được rước vào Yêrusalem, tuần thứ
ba về cuộc tử nạn của Chúa Yêsu, và tuần thứ tư về Chúa Yêsu Phục Sinh. Tuy
vậy, vẫn còn một số bài cầu nguyện khác, như:
·
Lời mời của Vua Hằng
Sống;
·
Các bài cầu nguyện, tạm
gọi là ngày Y-nhã;
·
Chiêm niệm để được tình
yêu ;
·
Ngoài ra còn có những
điểm phải suy nghĩ được gọi là “Nguyên Lý và Nền Tảng” ở khởi đầu của Linh
Thao, và các chỉ dẫn để làm việc lựa chọn ở cuối tuần thứ hai.
Tiến
trình Linh Thao được trình bày dưới đây theo thứ tự sau:
nếu không tính Nguyên Lý và Nền Tảng,
các bài cầu nguyện về tội và lòng nhân từ tha thứ của Thiên Chúa, thuộc tuần
nhất;
các bài cầu nguyện về Lời Mời của Vua Hằng Sống, về cuộc đời ẩn dật, về cuộc
đời công khai của Chúa, các bài cầu nguyện của ngày Y-nhã, việc lựa chọn, được
coi thuộc tuần hai;
các bài cầu nguyện về cuộc khổ nạn và phục sinh của đức Yêsu, thuộc tuần ba và
bốn;
bài “Chiêm niệm để được tình yêu” thường là bài cầu nguyện cuối cùng của Linh
Thao.
Theo
nhận định của các nhà nghiên cứu về Linh Thao, “Nguyên Lý và Nền Tảng” không có
nguồn gốc tại Manresa, nó hình thành sau, khi thánh Y-nhã học tại Paris. Tuy
vậy “Nguyên Lý và Nền Tảng” vẫn thuộc Linh Thao, vì nó là cái nhìn tổng quát về
vũ trụ, con người và Thiên Chúa, và vì nó là cái nhìn nền tảng để làm Linh
Thao.
Mỗi
tuần của Linh Thao, và cụ thể là mỗi bài cầu nguyện trong Linh Thao đều có mục
đích và yêu cầu cần đạt được. Chính vì vậy, một người khi làm Linh Thao, cần cố
gắng cầu nguyện hết sức để “đạt yêu cầu của từng bài”, như thể không hy vọng
đạt được gì khác ở những bài tiếp sau (LT.11).
Vậy
đâu là mục đích và yêu cầu khi suy nghĩ và cầu nguyện về “Nguyên Lý và Nền
Tảng”?
Những
bài cầu nguyện trong phần này nhằm giúp cho thao viên có cái nhìn đúng đắn về
Thiên Chúa, con người và vũ trụ.
Thiên
Chúa là nguyên lý và nền tảng của tất cả, Ngài yêu thương con người, Ngài tạo
dựng vũ trụ vật chất để phục vụ con người, để con người dùng chúng như phương
tiện đến với Thiên Chúa.
Làm
sao để sau những bài cầu nguyện này, thao viên cảm thấy bình tâm trước mọi tạo
vật.
Bình
tâm không đơn thuần là dửng dưng trước mọi sự, nhưng chủ yếu là chọn Thiên Chúa trên tất cả. Bất cứ điều nào làm vinh danh Thiên Chúa hơn
thì mình chọn; còn những gì làm vinh danh Chúa ngang nhau, thì mình không
ham muốn điều này hơn điều kia; chẳng hạn, nếu làm vinh danh Chúa ngang nhau,
thì tôi không chọn giầu có hơn nghèo hèn, danh vọng hơn xỉ nhục, sống lâu hơn
chết yểu,...
Chọn Thiên Chúa trên tất cả, chọn làm vinh
danh Thiên Chúa hơn những gì khác, đó là điểm chính yếu của bình tâm. Làm
sao sau khi cầu nguyện những bài về Nguyên Lý và Nền Tảng, thao viên cảm thấy
mình sẵn sàng chọn Thiên Chúa và những gì thuộc về Ngài trên tất cả những gì
khác trong cuộc sống của mình.
Con người giống hình ảnh Thiên Chúa (Stk.1,1-2,4a);
Con người là ai (Tv.8);
Thiên Chúa thấu suốt mọi sự (Tv.139/138);
Các ngươi tìm gì ( Yn.1,35-51);
Này Ta đứng ngoài cửa Ta gõ (Kh.3,14-22);
Thiên Chúa yêu tôi vô cùng (Yn.17,23.20;3,16;
Yn.13,1;15,9.13; Yn.14,16;15,26; Yn.14,23);
Chương trình “Yêsu Kitô” (Eph.1,3-14);
Nếu Thiên Chúa yêu tôi (Rm.8,31-39);
Thiên Chúa Quan Phòng (Mt.6,25-34);
Yêu Chúa yêu người (Mc.12,28-34);
Bình Tâm (LT.23).
Cầu
nguyện là gặp gỡ, nói chuyện, thân thưa, than thở tâm sự với Thiên Chúa.
Có
nhiều cách cầu nguyện, chẳng hạn như đọc kinh, xét mình, suy gẫm, chiêm niệm;
nhưng dù dùng cách thức nào, nó cũng phải giúp chúng ta gặp gỡ và tâm sự với
Thiên Chúa.
Đứng
trước một biến cố hay một lời nào đó, chúng ta có thể suy nghĩ, và nhờ đó nói
chuyện với Thiên Chúa.
Chúng
ta có thể dùng những đoạn Kinh Thánh, để suy gẫm như cầu nguyện:
·
Trước hết, chúng ta xem
Thiên Chúa hay đức Yêsu, qua tác giả Kinh Thánh, muốn dạy gì trong đoạn Kinh
Thánh đó;
·
Sau đó, xem chúng ta đã
sống điều được dạy đó như thế nào;
·
Và cuối cùng chúng ta
tâm sự thân thưa với Thiên Chúa.
Theo
thánh Y-nhã, để việc cầu nguyện được tiến bộ, chúng ta cần lượng giá giờ cầu
nguyện; việc lượng giá này được gọi là xét gẫm (LT.77).
Tôi được gì trong giờ cầu nguyện này?
·
Tôi có được bình an thư
thái không?
·
Tôi có được thêm lòng
tin cậy yêu mến Thiên Chúa không? Có cảm nghiệm Thiên Chúa gần gũi với mình
không?
·
Tôi có nhận được “ơn
xin” của bài cầu nguyện không?[1]
·
Tôi có được đánh động
hay được một ánh sáng gì đặc biệt không?
Tôi có hài lòng với giờ cầu nguyện này không?
Câu
hỏi này giúp tôi có nhận định tổng quát về giờ cầu nguyện. Nếu không được hài
lòng lắm, thì phải tìm nguyên do và
cải thiện, để giờ cầu nguyện tiếp sau được tốt hơn.
Nếu tôi không hài lòng lắm thì đâu là nguyên do?
·
Tại tôi thiếu cố gắng
tập trung cầm trí cầu nguyện?
·
Tôi không mau mắn xua
đuổi chia trí ngay khi tôi ý thức?
·
Phải chăng tại tôi chưa
cố gắng giữ ngũ quan và tâm trí, và tôi chưa luôn sống với ý thức Thiên Chúa
đang hiện diện với tôi và yêu thương tôi trong suốt cả ngày sống?
·
Tôi còn một vướng bận
hay bất hòa nào đó với tha nhân mà chưa được giải quyết không?
·
Có một quyến luyến lệch
lạc nào đó mà tôi chưa dứt khoát bỏ không?
Hay tại tôi chưa thật
sự mong ước khao khát tìm gặp Chúa, và sống với Ngài?
Thân thưa nói chuyện với Chúa về tình trạng tâm hồn mình
Nếu
còn giờ, tôi sẽ nói chuyện thân thưa với Chúa về thái độ cầu nguyện của mình,
về những ơn Chúa đã ban cho trong giờ cầu nguyện, và về những trễ nải thiếu
quảng đại với Chúa trong giờ cầu nguyện hay trong suốt ngày sống.
Có được ơn “bình tâm” hay được
ơn gì khác
Trong chủ đề này, cố gắng để được ơn
bình tâm. Ơn này chỉ có, khi chúng ta nhận thức đúng đắn về Thiên Chúa và tạo
vật, cũng như xác định rõ chỗ đứng tuyệt đối của Thiên Chúa trong đời mình, và
tạo vật chỉ là phương tiện để mình đến với Thiên Chúa.
Nếu thấy mình chưa được ơn bình tâm,
cần cầu nguyện tiếp tục về chủ đề này trước khi qua chủ đề tiếp sau.
Khi cầu nguyện một đề tài, hãy làm
những bước cần thiết, rồi để tùy Thánh Thần hướng dẫn chúng ta. Chúa Thánh Thần
hoàn toàn tự do dẫn chúng ta đi đâu tùy ý Ngài. Chỉ cần chúng ta luôn vâng phục
Ngài và sẵn sàng làm những gì Ngài muốn, và như vậy chúng ta có thể được những
ơn mà chúng ta không ngờ. Phải luôn luôn ý thức rằng Thánh Thần là vị Hướng Dẫn
và người Thầy duy nhất và tuyệt vời của chúng ta.
An ủi hay
sầu khổ (LT.316.317)
Người
ta có thể được an ủi (LT.316), hay sầu khổ (LT.317), hay cảm thấy dửng dưng
trong giờ cầu nguyện (LT.11).
Nếu
người tập Linh Thao không cảm thấy gì (dửng dưng), thì người hướng dẫn phải hỏi
xem họ đã làm giờ cầu nguyện thế nào, họ có giữ các điều phụ thêm không? Thường
thường, đó là nguyên do làm họ không cảm thấy gì trong giờ cầu nguyện.
Trong
giờ cầu nguyện, bình thường chúng ta
được an ủi, nghĩa là được bình an thư thái, cảm thấy thêm lòng tin cậy phó thác
hơn nơi Thiên Chúa, hoặc cảm thấy yêu mến Thiên Chúa hơn (LT.316), và cũng có
thể được thêm ơn mà mình đã xin trong giờ cầu nguyện. Nếu chúng ta nhận thấy
mình được an ủi, hãy tạ ơn Thiên Chúa.
Cũng
có thể chúng ta thấy mình bị sầu khổ thiêng liêng, nghĩa là mình cảm thấy chán
nản lười biếng trong việc thiêng liêng và cầu nguyện , bị cám dỗ về những gì
thấp hèn và phàm tục (LT.317). Trong trường hợp này, chúng ta phải tìm nguyên
do xem tại sao lại như vậy (LT.322); cần cố gắng tìm cho ra mà sửa chữa, để hy
vọng giờ cầu nguyện tiếp sau được tốt hơn.
Những
nguyên nhân thường ở tại nơi chính mình, do mình thiếu quảng đại trong việc tập
trung để cầu nguyện hay chưa cố gắng giữ ngũ quan và xua đuổi những tư tưởng
ngoại lai để luôn kết hợp với Thiên Chúa liên lỉ, hay tại mình chưa dứt khoát
với một lệch lạc nào đó nơi mình.
Tiến bộ hay thụt lùi so với giờ cầu nguyện trước
Cũng cần so sánh các lần cầu nguyện
để biết mình tiến bộ hay thụt lùi, và nguyên do tại sao, ngõ hầu mình sửa đổi
hay phát huy, để mỗi ngày một tiến bộ hơn.
Những
bài cầu nguyện được chỉ dẫn kỹ lưỡng đầu tiên trong sách Linh Thao của thánh
Y-nhã, là những bài về tội: về ba tội, về tội tôi,..., và về hỏa ngục.
Vào
thời gian khởi đầu giúp đỡ các linh hồn, thánh Y-nhã giúp Linh Thao cho riêng
từng người một, và tùy người tập Linh Thao đạt yêu cầu của tuần thứ nhất mau
hay chậm mà người đó sẽ qua tuần thứ hai.
Tôi
là ai? Tôi là ai đối với Thiên Chúa và tha nhân? Mục đích và yêu cầu của những
bài cầu nguyện về tội là gì? Như thế nào thì được coi là đạt yêu cầu của tuần
thứ nhất này?
Tôi
là một tội nhân nhưng được Thiên Chúa yêu thương vô cùng! Chúng ta sẽ xét về
hai phương diện: trí và tâm.
Làm
sao để mỗi người thấy sự xấu xa ác hại của tội và nhận biết thực sự rằng mình
là tội nhân.
Nhận
biết rõ về chính mình và thân phận hèn yếu của mình không phải là chuyện dễ
dàng. Có người cho rằng mình không có tội, mình chẳng phạm tội gì! Có người
cũng cho rằng mình là một tội nhân, nhưng ai mà không phạm tội, bản tính[2] con người
mà?!
Nếu
người nào suy nghĩ như vậy, thì họ sai lầm! Tội là hành vi tự do của con người,
tôi cố tình làm điều tôi thấy tôi không nên làm và không được phép làm.
Chính
hành vi tự do “cố tình làm điều tôi không được phép làm”, đã làm biến dạng con
người tôi, khiến tôi không còn đẹp như trước nữa, khiến tôi không còn dễ thương
và đáng yêu như trước nữa. Do phạm tội, tôi đã làm mất phẩm giá con người mình,
và làm tôi “xấu như qủy”.
Tội
không phải là thực tại ngoài mình, nhưng do mình mà ra, là chọn lựa tự do của
mình. Tình trạng tội là hậu qủa chọn lựa cố
tình của mình, do chính hành vi tự do của mình làm thành.
Thiên
Chúa muốn con người luôn sống yêu thương, để mỗi ngày một đẹp hơn, dễ thương
hơn và tự do hạnh phúc hơn. Không làm theo ý Thiên Chúa là tội. Không làm theo
những gì lương tâm thấy là đúng là tốt cho mình, là không làm theo ý Thiên
Chúa.
Tội
là không vâng lời Thiên Chúa, nhưng không phải chỉ là không vâng lời Thiên
Chúa, mà còn là xúc phạm đến Thiên Chúa, không
tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình và muốn làm những điều tốt lành cho mình.
Thiên
Chúa yêu thương chúng ta trong lúc chúng ta còn là tội nhân (Rm.5,8). Cảm
nghiệm tình yêu Thiên Chúa đối với mình và ao ước trở về với Ngài, là yêu cầu
mà mỗi người làm Linh Thao phải đạt được trong tuần thứ nhất.
Tội
là hành vi từ chối Thiên Chúa, không còn yêu thương thuận phục Thiên Chúa nữa.
Hai
người yêu nhau luôn muốn làm hài lòng nhau, họ không muốn làm trái ý nhau; chỉ
một hành vi làm người kia buồn, là họ đã lo lắng và muốn chuộc lại lỗi lầm, cho
dù đó chỉ là xúc phạm nhỏ. Cũng vậy người ta chỉ cảm thấy tội mình thực nặng nề
và muốn trở về với Thiên Chúa khi cảm nhận Thiên Chúa yêu thương mình vô cùng.
Thiên
Chúa yêu thương chúng ta vô cùng. Chính vì yêu thương nên Ngài luôn trông chờ
chúng ta trở lại với Người, và Người sẵn sàng tha thứ cho chúng ta khi chúng ta
thống hối.
Những
bài cầu nguyện về tội không nhằm làm chúng ta bị tê liệt hay bị dằn vặt hoặc
mặc cảm, nhưng để giúp chúng ta thấy được tình yêu vô bờ của Thiên Chúa khi
Ngài tha thứ tội lỗi cho chúng ta.
Đứng
trước tình yêu vô bờ của Thiên Chúa và thấy mình tội lỗi thấp hèn như vậy, bây giờ tôi phải làm gì?
Thái
độ của chúng ta là sám hối xin Thiên Chúa thứ tha, và ao ước khao khát bắt đầu
một đời sống mới với Thiên Chúa.
Khao
khát yêu mến Thiên Chúa, xin Thiên Chúa thứ tha tội lỗi, ao ước bắt đầu một đời
sống mới với Thiên Chúa, là tâm tình của một người thống hối thật sự.
Có
nhiều đoạn Kinh Thánh có thể dùng để cầu nguyện trong tuần thứ nhất này, ở đây
chỉ xin liệt kê một vài bản văn:
Tội Adam và Eva (Stk.3,1tt);
Tội Cain (Stk.4,1-16);
Dân Do-thái thờ bò vàng (Xh.32);
Dân Do-thái vô ơn và thử thách Thiên Chúa
(Xh.15,22-17,7);
Bất công (Am.8,4-10);
Israel bất trung (Yer.3,1-4,4);
Tội dân Do-thái (Bar.1,15-3,8);
Tội dân ngoại (Rm.1,18-32);
Không yêu thương là tội (Mt.25,31-46);
Những người mù thiêng liêng (Yn.9,1tt);
Phạm đến Thánh Thần (Mc.3,20-30);
Tôi là tội nhân (I Yn.1,8-2,11);
Chị phụ nữ ngoại tình (Yn.8,1-11);
Chị phụ nữ thống hối (Lời Chúa.7,36-50);
Lời nguyện thống hối (Tv.51/50);
Thiên Chúa là cha nhân từ (Lc.15,11-24).
Cầu nguyện là gặp gỡ Thiên Chúa, là
nói chuyện thân thưa với Ngài như một người bạn với một người bạn, như trò đối
với thầy, như tôi tớ đối với chủ, như người con đối với cha mình, và như một
tạo vật đối với Thiên Chúa.
Những bước cầu nguyện được trình bày
dưới đây, nhằm giúp người ta dễ dàng cầu nguyện hơn; nhưng một khi gặp gỡ được
Thiên Chúa rồi, thì những bước cầu nguyện không còn cần thiết nữa.
Để nói chuyện với ai, cần họ hiện
diện với mình một cách nào đó; cũng vậy, để nói chuyện với Thiên Chúa, cần ý
thức Thiên Chúa hiện diện với mình.
Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, Ngài luôn
nhìn xem, yêu thương và chăm sóc chúng ta, Ngài luôn hiện diện với chúng ta dù
chúng ta ý thức hay không; tuy vậy về phương diện con người, chúng ta vẫn cần ý
thức Ngài hiện diện để có thể nói chuyện với Ngài.
Để Ngài
thanh tẩy tâm hồn mình
Khó có thể nói chuyện thân tình với
ai, nếu người đó đang thù hận với họ. Cũng tương tự như vậy, chúng ta không thể
gặp gỡ nói chuyện với Thiên Chúa, nếu chúng ta đang ở trong tình trạng thù
nghịch với Ngài.
Trước khi cầu nguyện, chúng ta hãy
xin Thánh Thần tẩy luyện thánh hóa con người chúng ta, để chúng ta có thể gặp
gỡ thân tình với Ngài.
Để Ngài giúp
mình gạt bỏ mọi vướng bận
Nếu chúng ta còn nhiều bận tâm, và
không chú ý tới lời nói của người đang nói chuyện với mình, thì không thể nói
chuyện thân mật với người đó được. Cũng tương tự như vậy, nếu chúng ta không
đặt Thiên Chúa lên trên hết, nếu chúng ta không gạt bỏ mọi vướng bận, thì chúng
ta cũng không thể nói chuyện thân mật với Ngài được.
Cùng với tâm tình này, chúng ta gạt
bỏ mọi chia trí đến trong đầu chúng ta, và để hết tâm trí vào đề tài cầu
nguyện.
Để Ngài giúp
mình gặp gỡ Thiên Chúa
Để gặp một nhân vật quan trọng,
chúng ta phải xin gặp, và nếu được ưng thuận chúng ta sẽ được hẹn giờ. Không
phải bất cứ lúc nào mình muốn, đều có thể gặp được họ.
Cũng tương tự như vậy, gặp gỡ Thiên
Chúa là một hồng ân lớn lao mà chúng ta cần ý thức để trân trọng. Chỉ có điều
Thiên Chúa rất muốn gặp gỡ mình vì Ngài yêu thương mình; tuy vậy, được gặp gỡ
Thiên Chúa vẫn luôn luôn là một hồng ân đặc biệt.
Trí tưởng tượng rất quan trọng đối
với con người. Phần lớn hành vi phạm tội của chúng ta đều có sự đóng góp của
trí tưởng tượng. Tương tự như vậy, để nên thánh, chúng ta cũng dùng trí tưởng
tượng. Thân xác cũng góp phần giúp chúng ta nên thánh, như nó đã góp phần trong
hành vi tội của chúng ta.
Hình dung khung cảnh câu chuyện, và
đặt mình trong bối cảnh và trường hợp đó, giúp chúng ta dễ cầu nguyện hơn.
Mỗi bài cầu nguyện đều có một yêu
cầu cần đạt được, đó thường là “ơn xin” của bài cầu nguyện.
Ở tuần thứ nhất, chúng ta xin Thiên
Chúa cho chúng ta hiểu biết sâu xa về tội và những tác hại của tội, cho chúng
ta nhận biết mình là tội nhân và ơn được trở về với Người.
Ở tuần thứ hai, chúng ta xin Thiên
Chúa cho chúng ta được hiểu Ngôi Lời Nhập Thể hơn, để yêu mến Ngài hơn và theo
Ngài hơn.
Ở tuần thứ ba và thứ tư, chúng ta
xin Thiên Chúa cho chúng ta được đồng hình đồng dạng với Ngài; cụ thể trong
tuần ba xin Thiên Chúa cho chúng ta được chia sẻ với Ngài trong đau khổ và xỉ
nhục, được thông phần với Ngài trong cuộc thống khổ; và trong tuần thứ tư,
chúng ta xin cho được chia sẻ niềm vui và hân hoan của Chúa Phục Sinh.
Mỗi bài cầu nguyện có một hay nhiều
điểm cầu nguyện. Điểm cầu nguyện là những gợi ý, nhằm giúp mình có chất liệu để
suy nghĩ và cầu nguyện với Thiên Chúa. Tuy mỗi bài có thể có nhiều điểm cầu
nguyện, nhưng mỗi người chỉ dùng một số điểm mình thấy ích lợi, trừ phi người
hướng dẫn nói khác trong trường hợp cụ thể.
Tâm sự là nói chuyện thân thưa với
Thiên Chúa, khi đối diện với Thiên Chúa và biết rõ về mình hơn.
Tâm sự là phần chính của bài cầu
nguyện, dù người hướng dẫn chỉ nhắc một vài câu về điều này.
Nhận
định thiêng liêng rất cần thiết để tiến bộ trong đời sống tinh thần. Gần cuối
sách Linh Thao, thánh Y-nhã viết hai bộ quy luật nhận định các thần, một dành
cho tuần thứ nhất và một cho tuần thứ hai.
Thiên Chúa muốn tôi sống hạnh phúc
Thiên
Chúa tạo dựng con người để con người được sống hạnh phúc với Thiên Chúa. Thiên
Chúa không bao giờ muốn sự dữ cho con người, Ngài không bao giờ muốn con người
phạm tội[3] dù Ngài ban
cho con người được tự do.
Thiên
Chúa muốn con người hạnh phúc không chỉ ở đời sau nhưng ngay cả ở đời này nữa;
Ngài không chỉ muốn con người hạnh phúc trong cầu nguyện mà còn cả trong cuộc
sống thường ngày nữa.
Thiên
Chúa muốn con người cảm nghiệm hạnh phúc khi sống đặc biệt với Ngài. Cụ thể
trong cầu nguyện, Ngài muốn con người được bình an thư thái, được thêm lòng tin
cậy yêu mến Ngài.
Các thần lành giúp tôi sống như Thiên Chúa muốn
Các
thần lành là các vị sống trong tình yêu của Thiên Chúa, các ngài sống hạnh phúc
trong tình yêu và các ngài cũng muốn con người sống trong tình yêu và hạnh phúc
như các ngài.
Thần dữ không muốn tôi sống hạnh phúc với Thiên Chúa
Thần
dữ là các thiên thần kiêu ngạo chống đối Thiên Chúa, và không muốn chúng ta
sống hạnh phúc trong tình yêu của Thiên Chúa. Hơn nữa, thần dữ còn tìm mọi cách
để tôi xa lìa và chống đối Thiên Chúa.
Thiên
Chúa muốn tôi sống hạnh phúc, trong cuộc sống thường ngày và đặc biệt trong giờ
cầu nguyện; cụ thể, ít nhất, tôi được bình an thư thái trong cuộc sống và trong
giờ cầu nguyện.
An
ủi là tình trạng bình thường trong
giờ cầu nguyện nếu chúng ta sống tương quan tốt với Thiên Chúa.
Thánh
Y-nhã viết:
“Gọi là an ủi khi trong tâm hồn có một thúc đẩy nội
tâm, làm linh hồn cảm thấy bùng cháy lửa yêu mến Tạo Hóa và Chúa mình, và rồi
linh hồn cảm thấy không còn có thể yêu mến bất cứ tạo vật nào trên mặt đất này
vì chính nó, nhưng chỉ yêu trong Đấng Tạo Hóa mà thôi.
Tương tự, khi linh hồn chảy nước mắt trước tình yêu
Thiên Chúa, do cảm nghiệm tội lỗi của mình hay do cảm nghiệm cuộc thương khó
của Chúa, hay do cảm nghiệm những sự khác hướng về việc phụng sự và ngợi khen
Thiên Chúa.
Sau cùng, gọi là an ủi khi linh hồn cảm nghiệm sự gia
tăng đức cậy đức tin và đức mến, và niềm thanh thản thâm sâu mời gọi và lôi kéo
đến những sự trên trời và phần rỗi của linh hồn, làm linh hồn cảm thấy thư thái
và bình an trong Tạo Hóa và Chúa mình“ (LT.316).
Phần
lớn khi được an ủi là do thần lành hướng dẫn[4] (LT.318),
và nếu khi xét gẫm mình đã nhận ra đó là ơn Chúa thì hãy tạ ơn Chúa.
Sầu
khổ là do tác động của thần dữ (LT.318).
Thánh
Y-nhã viết:
“Gọi là sầu khổ tất cả những gì trái ngược với quy
tắc thứ ba. Chẳng hạn, sự tối tăm trong tâm hồn, xao xuyến bên trong, thúc đẩy
về những gì thấp hèn và phàm tục, bất an trước những xáo động và cám dỗ xúi ta
mất tin tưởng, trông cậy và tình yêu; linh hồn cảm thấy lười biếng, khô nhạt,
buồn rầu và như bị lìa xa Đấng Tạo Hóa và Chúa mình” (LT.317).
Vì
sầu khổ là do tác động của thần dữ, mà nếu chúng ta theo nó thì không thể đến
với Thiên Chúa được; thế nên “chúng ta luôn luôn làm ngược lại điều ma qủy hay thần dữ muốn” (LT.351).
Nếu thần dữ muốn chúng ta bỏ cuộc,
thì chúng ta sẽ không thay đổi quyết định (LT.318), mà hơn nữa còn phải làm
ngược lại điều thần dữ muốn, nghĩa là, chúng ta sẽ chăm chỉ cầu nguyện hơn, xét
mình kỹ hơn, hy sinh hãm mình hơn (LT.319), thái độ dứt khoát với thần dữ
(LT.325), từ bỏ mình hơn bằng việc hy sinh hãm mình và cởi mở lương tâm với
những người đạo đức (LT.326).
Nếu
nguyên do làm chúng ta cầu nguyện không được tốt, là bởi chúng ta còn chia trí
về những vướng bận hay lệch lạc nào đó, hay bởi chúng ta còn có một ngăn trở
nào đó với Thiên Chúa và với con người, thì mình phải lo thống hối và hoán cải
(LT.321bc).
“Tiếng
gọi Vua Đời Tạm giúp chiêm ngắm đời sống Vua Vĩnh Cửu”, là bài cầu nguyện nằm
giữa tuần nhất và tuần hai. Bài cầu nguyện này xác định thái độ cần thiết để có
thể cầu nguyện tốt những bài cầu nguyện tiếp theo sau.
Ơn
xin của bài cầu nguyện này: “xin ơn đừng giả điếc trước lời mời gọi của Chúa
nhưng mau mắn thi thành thánh ý Ngài”.
Dù chúng
ta tội lỗi, nhưng Thiên Chúa đã yêu thương tha thứ tội lỗi và mời gọi chúng ta
cộng tác với Ngài để chinh phục thế gian, để làm cho con người nhận biết tình
yêu vô cùng của Thiên Chúa đối với con người. Chúng ta có sẵn sàng đáp trả lời
mời gọi của Thiên Chúa không?
Chọn
Thiên Chúa và đặt thánh ý Ngài trên tất cả, kết hiệp với thánh ý Thiên Chúa[5], sẵn sàng
đáp trả lời mời gọi của Ngài dù thế nào chăng nữa, ngay cả trong khó nghèo khổ
nhục, là yêu cầu của bài cầu nguyện này[6].
Yêu
cầu của bài Tiếng Gọi Vua Hằng Sống, được hàm chứa trong nhiều đoạn Kinh Thánh.
Có
thể dùng những đoạn Kinh Thánh sau để cầu nguyện:
Lời mời (Lc.5,1-11);
Hãy là thánh (Lv.19,2);
Sứ mạng (Yn.20,21);
Ơn gọi Abraham (Kn.12,1-9);
Đáp trả trong vâng phục đức tin (Kn.22,1-10);
Ơn gọi Môsê (Xh.3,1-12);
Ơn gọi Samuel (I Sm.3,1-21);
Ơn gọi Ysaya (Ys.6,1-13);
Ơn gọi Yêrêmya (Yer.1,4-19 hoặc Yer.20,7tt);
Người tôi tớ Yahweh (Ys.42,1-9;49;50;52);
Ơn gọi Phaolô (Cv.9);..............
Cầu
nguyện là ý thức sống với Chúa, cảm nghiệm Chúa yêu thương mình, dâng lên Chúa
những tâm tình mình có: lời cảm tạ tri ân, lời tán dương, cảm nghiệm hạnh phúc
với Chúa, lời khẩn cầu khi ý thức mình bất lực,...
Có thể nói, cầu nguyện chủ yếu là
tâm sự. Đã đành trong suy gẫm, suy nghĩ cũng quan trọng; trong chiêm niệm, nhìn
ngắm cũng quan trọng; nhưng có thể nói, tâm sự là phần quan trọng nhất.
Để hướng dẫn người giúp Linh Thao,
thánh Y-nhã khuyên họ nên gợi ý cầu nguyện ngắn gọn và trung thực, để giúp
người tập Linh Thao dễ cầu nguyện hơn, vì “không phải sự hiểu biết nhiều làm
thỏa mãn linh hồn, nhưng chính sự cảm nếm bên trong mới làm thỏa mãn linh hồn”
(LT.2).
Trong cầu nguyện và đặc biệt trong
tâm sự, chúng ta có thời gian để sống với Thiên Chúa và cảm nghiệm tình yêu của
Ngài dành cho chúng ta. Trong ý nghĩa này, chúng ta có thể nói cầu nguyện là
giờ phút cảm nghiệm hạnh phúc với Thiên Chúa.
Những điểm gợi ý cầu nguyện, chỉ là
những gợi ý, là phương tiện giúp chúng ta cầu nguyện; nó chỉ có giá trị tương
đối và “rất là tương đối”. Chính vì thế, chúng ta chỉ dùng những điểm gợi ý
trong mức độ nó giúp chúng ta cầu nguyện, và chỉ dùng số điểm nào đó như chúng
ta thấy cần và có ích, chứ không dùng tất cả mọi điểm đã được gợi ý
(LT.2.76.228)[7].
Về tư thế khi cầu nguyện, tư thế nào
(ngồi, đứng, qùy, phủ phục, ...) giúp mình dễ dàng gặp Chúa, thì mình dùng tư
thế đó; Và một khi dùng tư thế đó mà gặp được Chúa, thì không nên thay đổi
(LT.76).
Tâm sự là nói chuyện thân thưa với
Chúa như một người bạn với một người bạn, như một người tôi tớ với chủ mình.
Được coi là tâm sự,
·
khi thân thưa với Thiên
Chúa về chính con người và nhu cầu của mình,
·
khi dâng lời cảm tạ tôn
vinh Thiên Chúa,
·
khi xin một ơn,
·
khi xin tha thứ lỗi
lầm,
·
khi phó thác công việc
hay trọn cả con người cho Thiên Chúa,
·
khi xin dạy bảo hay
hướng dẫn (LT.54.61.109.199.224).
Nếu xét gẫm mà chúng ta thấy giờ cầu
nguyện khô khan và không có tâm tình, phải xem xem mình có dùng giờ để tâm sự
thân thưa với Thiên Chúa không.
Tâm sự là lắng nghe và nói chuyện
với Chúa bằng cả con người với tất cả tâm tình, là ở lặng bên Chúa mà cảm
nghiệm hạnh phúc.
Suy nghĩ, chưa phải là cầu nguyện;
suy nghĩ và tâm sự với Chúa, mới là cầu nguyện. Những gợi ý cầu nguyện, là
những gợi ý để giúp chúng ta hiểu biết hơn về mình và về Thiên Chúa, để rồi
chúng ta có thể tâm sự với Thiên Chúa dựa vào những điều chúng ta đã thấy hoặc
được soi sáng.
“Sau
khi cầu nguyện xong, trong khoảng một khắc, hoặc ngồi hoặc đi đi lại lại, xem
giờ chiêm niệm hoặc suy niệm đã diễn ra thế nào. Nếu dở, xem đâu là nguyên do,
và một khi đã thấy thì hối hận và sửa đổi trong tương lai. Nếu tốt, tạ ơn Thiên
Chúa Chúa chúng ta, và lần khác cứ làm như vậy” (LT.77).
Mười
lăm phút xét gẫm, là 15 phút nhận định thiêng liêng và cầu nguyện, là những
phút phản tỉnh để biết mình hơn và biết Thiên Chúa hơn.
Việc
xét gẫm rất quan trọng để giúp mình tiến bộ hơn, chính vì thế phải làm rất
nghiêm túc.
Có
thể có những lúc trong đời, chúng ta cảm thấy mình bị cám dỗ nhiều, và cảm thấy
bị cám dỗ nhiều về điều này hơn điều kia. Tại sao vậy?
Có
thể đó là điểm yếu của tôi.
Thánh
Y-nhã viết:
”Thần dữ xử sự như một tướng quân để thắng và cướp
những gì nó muốn. Bởi vì, một vị chỉ huy hoặc thủ lãnh của một đạo quân, sau
khi đặt doanh trại và quan sát lực lượng hay cách bố trí của một thành trì, sẽ
tấn công vào điểm yếu nhất.
Cũng vậy, kẻ thù của bản tính loài người cũng lượn
quanh để quan sát các nhân đức đối thần, các nhân đức trụ và luân lý, và nơi
nào nó nhận thấy ta yếu nhất và dễ nguy hiểm nhất cho phần rỗi đời đời của ta,
nó sẽ tấn công vào đó để cố hạ ta” (LT.327).
Nếu tôi bị tấn công nhiều ở điểm nào, có thể
đó là điểm yếu (nhược điểm) nhất của tôi chăng?
Nếu
tôi bị tấn công hay bị cám dỗ dữ dội ở điểm nào đó, có thể tại vì tôi chưa dứt khoát thái độ ở điểm này, tại
tôi chưa dứt khoát chống trả ma qủy và những chước cám dỗ của nó chăng?
Thánh
Y-nhã viết:
“ Kẻ thù xử sự như đàn bà, vì nó yếu khi ta chống
trả, và nó mạnh khi ta buông xuôi. Thực vậy, đặc điểm của đàn bà khi gây gỗ với
đàn ông, là mất can đảm và chạy trốn khi đàn ông thẳng tay chống trả. Còn ngược
lại nếu người đàn ông bắt đầu chạy trốn và mất can đảm, thì cơn giận sự trả thù
và sự hung dữ của đàn bà thật lớn và không sao lường được.
Cũng vậy, đặc điểm của kẻ thù là yếu nhược và mất can
đảm cùng chạy trốn với những cám dỗ của nó, khi người tập tành trong đường
thiêng liêng thẳng tay chống trả các chước cám dỗ của kẻ thù và làm ngược lại
với các cám dỗ. Nhưng trái lại nếu kẻ bắt đầu tập tành trên đường nhân đức lại
sợ hãi và mất can đảm trước cuộc tấn công của cám dỗ, thì trên mặt đất này
không có con vật nào hung dữ cho bằng kẻ thù của bản tính loài người nhằm theo
đuổi ý hướng xấu xa và vô cùng đồi tệä của nó” (LT.325).
Tình yêu với Chúa đã bị suy giảm
Khi
tôi bị cám dỗ nhiều hoặc mạnh, cũng có thể Thiên Chúa để tôi bị cám dỗ nhiều,
để tôi có nhiều dịp lập công và trưởng thành cùng cứng cáp hơn chăng
(LT.33-34.322b); nhưng có thể đó là dấu
chỉ cho thấy lòng mến của tôi đối với Thiên Chúa đã bị giảm sút chăng?
Chúng ta hãy xem tình yêu của mình
đối với Thiên Chúa như thế nào.
Yêu
là hành vi tự do. Sống theo bản năng, không được lý trí hướng dẫn, thì không
phải là hành vi tự do, và như vậy không là yêu thương.
Khao
khát nên thánh[8], ao ước
thuộc trọn về Thiên Chúa, là hành vi tình yêu.
Cứ
xem chúng ta khao khát thuộc về Chúa, khao khát nên thánh đến mức độ nào, để
chúng ta biết chúng ta yêu Chúa như thế nào. Nếu khi xét gẫm mà chúng ta nhận
thấy chúng ta còn thiếu tình yêu đối với Thiên Chúa hay thiếu lòng khao khát
Thiên Chúa, thì hãy khiêm tốn xin Thiên Chúa ban tình yêu của Ngài cho chúng
ta.
Xin được yêu Chúa, đó là điều chúng ta
cần khiêm tốn nài xin liên lỉ (Xem LT.234).
Quảng đại trong từng chọn lựa thường ngày
Từ
ngữ “Tình yêu” là từ ngữ trừu tượng. Dù là từ ngữ trừu tượng, nó vẫn diễn tả
một thực tại vô cùng phong phú được biểu lộ bằng nhiều hành vi cụ thể.
Yêu
Thiên Chúa, là sẵn sàng để tùy Ngài muốn xếp đặt như thế nào về con người và
cuộc đời của mình cũng được. Sẵn sàng dâng
tất cả cho Chúa, để Chúa hoàn toàn tự do quyết định.
Yêu
Thiên Chúa, là chọn Thiên Chúa và những gì thuộc về Thiên Chúa trên hết. Chẳng
hạn trong thời gian Linh Thao, dành tất cả thời giờ cho Thiên Chúa và cụ thể là
cầu nguyện; luôn sống với ý thức Thiên Chúa hiện diện với mình và yêu thương
mình, luôn sống trong tâm tình của chủ đề mình đang cầu nguyện; luôn giữ gìn
ngũ quan để dễ dàng tập trung cầu nguyện và không làm người khác bị phân tâm
chia trí; hy sinh hãm mình như dấu chỉ muốn thuộc về Thiên Chúa hơn nữa.
Chúng
ta đang ở trong tuần thứ hai của Linh Thao: cầu nguyện về Ngôi Lời nhập thể, từ
mầu nhiệm nhập thể cho đến ngày đức Yêsu được rước vào thành Yêrusalem cách
long trọng.
“Xin
hiểu biết thâm sâu về Chúa, Đấng đã làm người vì tôi, để yêu Ngài hơn và theo
Ngài” (LT.104).
Vô
tri bất mộ. Nếu càng hiểu biết về Chúa, thì sẽ càng yêu mến Chúa hơn. Cái biết
ở đây không chỉ là cái biết do nghe nói, nhưng chủ yếu là cái biết thâm sâu do
được cảm nghiệm.
Thiên
Chúa là ai? Là Đấng yêu tôi đến độ nhập thể làm người vì tôi. Nếu Thiên Chúa
yêu tôi như vậy, tôi phải làm gì để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa đây? Chỉ có
tình yêu mới đáp trả được tình yêu.
Tình
yêu được diễn tả cách cụ thể, chính Thiên Chúa đã nhập thể để phục vụ con
người: “con người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng
sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mc.10,45); còn tôi, tôi phải làm gì để yêu
Thiên Chúa đây? Tôi phải nên giống Ngài, phải theo Ngài.
Hiểu
Chúa hơn, để yêu Ngài hơn và theo Ngài hơn. Đó là cách nói khác của cùng nội
dung “để trở nên đồng hình đồng dạng với đức Yêsu Kitô” (Pl.3,10), “nếu ta cùng
chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người, nếu ta cùng đau khổ với Người, ta sẽ
cùng thống trị với Người”, “tôi sống nhưng không còn phải tôi sống, nhưng là
chính đức Kitô Ngài sống trong tôi” (Gl.2,20).
Nên
giống Chúa Yêsu hơn, vì Chúa Yêsu là người mẫu của chúng ta, Ngài là thần
tượng, là Đấng mà chúng ta phải bắt chước và quy chiếu về. Yêu thương là trở
nên một với nhau, nếu chúng ta yêu thương Thiên Chúa, nghĩa là, chúng ta nên
giống Chúa Yêsu hơn.
·
Lời đã thành xác phàm
(Yn.1,1-18);
·
Nhập thể là tự hủy
(Pl.2,6-11);
·
Sinh bởi người nữ
(Gl.4,4-6);
·
LT.101-109
·
Lời nhập thể được giáng
sinh (Lc.2,1-20);
·
Lời Thiên Chúa Nhập Thể
được cắt bì và đặt tên (Lc.2,21);
·
Đức Yêsu được dâng
trong đền thờ (Lc.2,22-40);
·
Trốn sang Ai-cập
(Mt.2,13-23);
·
Đức Yêsu thời thơ ấu
(Lc.2,39-40);
·
Đức Yêsu ở lại đền thờ
(Lc.2,41-50);
·
Đức Yêsu sống một thời
gian rất dài ở Nadarét (Lc.2,51-52).
·
Đức Yêsu chịu phép rửa
(Mc.1,1-13);
·
Đức Yêsu chịu cám dỗ
(Mt.4,1-11);
·
Trọn ngày sống cho
Thiên Chúa (Mc.1,21-39);
·
Đức Yêsu luôn tìm và
thực hiện Thánh Ý Cha (Yn.4,34);
·
Mối phúc thật
(Mt.5,1-12);
·
Thái độ của dân chúng
đối với đức Yêsu (Mc.1,32-3,12);
·
Thái độ của người thân,
ký lục và biệt phái đối với đức Yêsu (Mc3,20-30);
·
Khủng hoảng sứ vụ tại
Galilê (Mc.4);
·
Hạt giống âm thầm mọc
(Mc.4,26-29);
·
Loan báo tin mừng bằng
trừ qủy (Mc.5-6);
·
Các tông đồ không hiểu
đường lối của đức Yêsu (Mc.4;6);
·
Đức Yêsu là Kitô
(Mc.8,27-30);
·
Con đường đức Yêsu đi
là con đường thập giá (Mc.8,31-33);
·
Ai muốn theo tôi phải
vác thập giá mình (Mc.8,34-9,1);
·
Con đường đức Yêsu đi:
cầu nguyện và ăn chay (Mc.9,14-29);
·
Con đường đức Yêsu đi:
phục vụ (Mc.9,33-37);
·
Con đường đức Yêsu đi:
yêu thương (Mc.12,28-34);
·
Tinh thần của đức Yêsu
(Mc.9,38-41);
·
Không muốn hiểu bài học
thập giá (Mc.10,32-45);
·
Người mù được sáng
(Mc.10,46-52);
·
Những người không chấp
nhận con đường đức Yêsu đi (Mc.11,15-19;12,1-12;12,13tt);
·
Đức Yêsu, con người tự
do (với bạc tiền,danh vọng, tình duyên);
Chúng ta tìm hiểu thêm về cầu nguyện
và nhận định thần loại. Trước tiên chúng ta tìm hiểu cầu nguyện như chiêm niệm,
sau đó tìm hiểu về các quy luật nhận định thần loại tuần thứ hai.
Trong những bài cầu nguyện về mầu
nhiệm nhập thể, giáng sinh, ..., thánh Y-nhã đều chỉ cách chiêm niệm.
Nhìn đức Yêsu, suy nghĩ để rút ích
lợi; Nghe đức Yêsu, suy nghĩ để rút ích lợi; Quan sát cung cách hành xử của đức
Yêsu, suy nghĩ để rút ích lợi: đó là cách cầu nguyện “chiêm niệm”.
Có những đề tài cầu nguyện không thể
chiêm niệm được, nhưng nếu đề tài cầu nguyện là về Chúa Yêsu, thì có thể áp
dụng cách cầu nguyện chiêm niệm.
Chúng ta nhìn, nghe, quan sát, để
thấy Chúa đã nhìn nghe hành xử như thế nào trong những trường hợp và tình huống
khác nhau, để mình trở nên giống Thiên Chúa hơn, giống đức Yêsu hơn.
Trở nên giống đức Yêsu hơn, nên đồng
hình đồng dạng với Ngài, không phải trên bình diện thể lý, nhưng trên bình diện
thiêng liêng: có con tim “nhân từ, bao dung, thương yêu” như Chúa, có ánh mắt
“nhân từ, trong sáng, cảm thông” như Chúa, có cung cách hành xử “độ lượng, kiên
nhẫn, cương quyết dứt khoát” như Chúa.
Chúa Yêsu luôn là mẫu để chúng ta
noi theo và bắt chước: quan điểm lập trường của Ngài, cách sống của Ngài. “Để
yêu Chúa hơn và theo Ngài hơn”, đó là mục đích của những bài cầu nguyện tuần
thứ hai này.
Thiên
Chúa muốn con người được sống trong tình yêu và hạnh phúc với Ngài; các thần
lành cũng muốn chúng ta sống trong hạnh phúc với Thiên Chúa như các ngài; còn
các thần dữ thì luôn chống đối Thiên Chúa và tìm mọi cách để làm con người sống
xa Thiên Chúa.
Khi
có nguyên do, cả thần lành lẫn thần dữ đều có thể “an ủi”, nhưng nhằm mục đích
trái ngược (LT.331).
Chỉ có Thiên Chúa mới có thể tác
động trực tiếp trên con người không cần trung gian; Điểm đặc
biệt của Thiên Chúa là có thể lôi kéo con người đến với Ngài không qua trung
gian, mà con người hoàn toàn tự do (LT.330).
Chỉ
có Thiên Chúa có thể can thiệp trên tự do con người; đó là lý do tại sao chúng
ta cầu nguyện xin Thiên Chúa biến đổi một người, xin cho người nào đó trở lại.
Làm một người trở lại, đó là khả năng chỉ có một Thiên Chúa mới có thể làm được
(mà người đó vẫn hoàn toàn tự do).
Thiên
Chúa có thể dùng trung gian để biến đổi một người, và Ngài cũng có thể biến đổi
một người không cần dùng trung gian, mà con người vẫn hoàn toàn tự do[9].
Đối
với một người đang tiến tới trên đàng thiêng liêng, nếu người đó biết điều gì
đó là do ma qủy thì chắc chắn người đó sẽ không theo; như vậy, để làm con người
đi theo đường lối tà vạy của mình, ma qủy thường hay giả dạng thần lành để dẫn
đưa người đó theo lối đồi tệ của nó (LT.332).
Nếu
một ý tưởng hay một điều nào đó lúc đầu có vẻ tốt lành thánh thiện, nhưng sau
đó lại làm chúng ta cầu nguyện không được: như làm chúng ta chia trí phân tâm
trong cầu nguyện, làm việc cầu nguyện bị giảm sút, chúng ta thấy bối rối, không
được bình an như trước, thì đó là dấu chỉ cho thấy ý tưởng hay điều đó là do ma
qủy (LT.333); chúng ta hãy duyệt xét lại để rút kinh nghiệm cho lần tới, để
không trúng bẫy ma qủy nữa (LT.334).
Trong
“ngày thứ tư của tuần thứ hai” (LT.136) thánh Y-nhã đề nghị một số bài cầu
nguyện (Hai Hiệu Cờ, Ba Mẫu Người, Ba Bậc Khiêm Nhường) và việc “chọn lựa bậc
sống”. Tuy không phải tất cả những điều trên được làm trong một ngày, nhưng
chúng ta cứ quy ước gọi tạm là “ngày Y-nhã”.
Thánh
Y-nhã muốn gì khi gợi ý những bài cầu nguyện nêu trên?
Trong
tất cả các bài cầu nguyện này, thánh Y-nhã đều dạy chúng ta làm ba cuộc tâm sự:
một với Đức Mẹ, một với Chúa Con và một với Chúa Cha, nài xin cho mình được
đứng vào dưới cờ của Chúa Yêsu bằng:
·
ơn được nghèo khó trong
lòng tột bậc, và ngay cả được ơn nghèo khó thực sự nếu Chúa được tôn vinh hơn;
·
ơn chịu xỉ nhục và
khinh chê để bắt chước Chúa hơn nếu điều này không gây dịp tội cho ai và không
làm mất lòng Chúa.
Trong
bài cầu nguyện về Hai Cờ, thánh Y-nhã dạy chúng ta xin ơn nhận biết mưu mô của kẻ thù và ơn
trợ giúp để tránh, cũng như ơn nhận
biết đời sống chân thực mà Chúa dạy cùng ơn để bắt chước (LT.139). Trong bài Ba Mẫu Người, chúng ta xin ơn chọn điều nào làm vinh danh Chúa hơn
(LT.152). Trong suy gẫm về Ba Bậc Khiêm Nhường, xin Chúa chọn mình để mình bắt chước
và phục vuï Chúa hơn (LT.168).
Như
vậy chúng ta thấy, tiến trình ơn xin của các bài cầu nguyện Y-nhã đi từ xin cho
mình nhận thức, đến xin cho mình chọn, và sau đó xin Chúa chọn mình vào đời
sống nghèo và xỉ nhục khinh chê.
Các
bài cầu nguyện Y-nhã cho chúng ta hiểu biết hơn về con người của chúng ta: xem
chúng ta đã nhận thức về con đường của đức Yêsu như thế nào, và xem chúng ta có
dám chọn theo đức Yêsu nghèo và bị xỉ nhục không, xem chúng ta có sẵn sàng sống
như Chúa Yêsu đã sống không?
Hai con đường (Tv.1);
Tôi phải làm gì (Mc.10,17-31);
Định mạng đức Yêsu (Mc.10,32-34);
Nếu thế gian ghét các ngươi (Yn.15,18-25);
Ai muốn theo Ta (Mt.16,21-28).
Từ
muôn thuở Thiên Chúa đã yêu thương tôi, Ngài đã tạo dựng tôi, và tôi có chỗ
trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Thiên Chúa không chỉ lưu tâm cách
tổng quát về tôi, nhưng Ngài còn để ý lưu tâm đến từng cử chỉ hành vi biến cố
của tôi (Tv.139 Lc.12,6-7); chính vì thế trong từng biến cố chúng ta có thể hỏi
“Thiên Chúa muốn tôi làm gì?”.
Nếu
ngay cả việc “đi đứng nghỉ ngơi” Chúa đều biết, thì huống hồ về bậc sống của
cuộc đời mình: Thiên Chúa đã có chương trình về tôi. Nếu Thiên Chúa muốn gọi và
chọn tôi ở bậc sống nào, thì Ngài đã tạo dựng tôi thích hợp cho bậc sống đó.
Lời
mời gọi “sống đời sống nào đó” có thể được biểu lộ nơi lòng ao ước sống đời
sống đó, hoặc có những dấu chỉ khách quan cho thấy Thiên Chúa muốn. Nếu một
người khao khát sống bậc sống dâng hiến với ý hướng ngay lành[10], lòng khao
khát đó có thể là dấu chỉ cho thấy Chúa gọi người đó. Nếu khát vọng này đã có
khá lâu và còn tồn tại cho tới ngày nay, thì càng cho thấy “người đó được Chúa
gọi” cách chắc chắn hơn. Nếu trong đời người đó có những biến cố khách quan mà
người đó xác tín rằng đó chính là Chúa bảo vệ để gọi họ, thì càng chắc chắn hơn
nữa rằng “Chúa gọi họ”.
Lựa
chọn theo thánh Y-nhã, không phải là quyết định theo ý thích của mình, nhưng là
chọn theo Ý của Thiên Chúa về mình.
Lựa
chọn bậc sống, không có nghĩa là mình thích bậc sống nào thì mình chọn bậc sống
đó[11], nhưng:
Thiên Chúa muốn mình sống bậc sống nào thì mình chọn bậc sống đó.
Trong
sách Linh Thao, thánh Y-nhã đề cập đến ba thời để làm việc lựa chọn; trong thời
thứ ba, thánh Ynhã nói tới hai cách làm việc lựa chọn. Tuy vậy chúng ta nên cẩn
thận, không phải ai cũng làm việc lựa chọn “đúng đắn” được, nhưng chỉ những
người có cái nhìn đúng đắn về Thiên Chúa con người và vũ trụ, cũng như họ phải
bình tâm thực sự, thì họ mới có thể lựa chọn “đúng đắn” được[12].
Để
làm việc lựa chọn tốt, cần ý thức rõ mục đích đời người: Thiên Chúa tạo dựng
con người để con người sống hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa, và muôn loài
muôn sự được tạo dựng như phương tiện để giúp con người đi tới với Thiên Chúa.
Bình
tâm là một điều kiện cần thiết để làm việc lựa chọn đúng đắn và chính xác: chọn
lựa theo điều Chúa muốn chứ không phải theo ý riêng mình thích.
Nếu
không bình tâm, thì không thể chọn lựa đúng đắn được. Như vậy, chỉ nên cho
những người “bình tâm” được làm chọn lựa, tức là những người chỉ muốn làm theo
ý Chúa để tôn vinh Ngài chứ không tìm hoặc muốn làm theo ý mình[13].
Đã là người, sống thì phải lựa chọn.
Lựa chọn là chính cuộc sống, là hành vi nhân linh, là hành vi tự do. Lựa chọn,
bao hàm con người toàn diện, gồm cả hành vi lý trí lẫn ý chí.
Con người có lý trí.
Để sống hạnh phúc, đối với chính
mình con người cần nhận thấy hành vi, cách sống, hay việc làm của mình hợp lý, và trong tương quan với Thiên
Chúa con người cần thấy việc mình làm thuận
theo Ý Chúa.
Nhận ra Ý Thiên Chúa về mình và cảm
nhận mình sống triển nở, thường hay đi đôi với nhau; sở dĩ vậy vì Thiên Chúa
luôn yêu thương và luôn muốn con người sống hạnh phúc.
Tôi lựa chọn bậc sống này, vì tôi
thấy bậc sống này giúp tôi sống triển nở và hạnh phúc, vì bậc sống này thoả mãn
khát vọng sâu xa con người tôi mà bậc sống khác không thể đáp ứng được, và như
vậy tôi xác tín Chúa gọi tôi.
Biết
và làm, đôi khi không trùng khít với nhau nơi nhiều người. “Tri hành bất nhất”,
làm cho con người không được hạnh phúc.
Thiên
Chúa muốn ai làm điều gì, thì Ngài ban cho họ có khả năng thực hiện điều đó.
Nếu Thiên Chúa muốn ai thực hiện điều gì đó, thì người đó không thể nói “lực
bất tòng tâm”. Như vậy, nếu một người thấy rõ mình không thể làm điều gì đó,
hoặc không thểå tin rằng Thiên Chúa sẽ giúp mình và cho mình có khả năng làm điều đó, thì đó là dấu chỉ
cho thấy Thiên Chúa không muốn điều đó cho họ.
Khả
năng sống điều mình xác tín, cho thấy điều xác tín có thể là Ý Chúa đối với họ.
Như vậy, nếu ai tin rằng (hay thấy rằng) họ được Thiên Chúa gọi sống đời sống
dâng hiến, thì trong cuộc sống cụ thể họ phải cảm thấy sống thoải mái và hạnh
phúc trong đời sống dâng hiến. Không có khả năng sống đời sống dâng hiến “một
cách triển nở và hạnh phúc[15]”, là dấu
chỉ cho thấy Thiên Chúa không muốn người đó sống đời dâng hiến.
Nếu
chúng ta làm việc lựa chọn đúng, nghĩa là nếu chúng ta chọn điều Thiên Chúa
muốn cho chúng ta, thì chúng ta sẽ bình an thư thái hạnh phúc hơn, phản ánh
tương quan tốt với Thiên Chúa.
Một
cách cụ thể, nếu chúng ta chọn lựa tốt, chúng ta sẽ:
·
cầu nguyện tốt, ít nhất
là bằng thời gian trước khi chọn lựa[16];
·
vui hơn;
·
bình an, thư thái, hạnh
phúc hơn.
Xét
gẫm cũng giúp chúng ta biết mình hơn, biết tương quan của mình với Chúa đang
như thế nào, để mình không ảo tưởng về mình, và để mình cải thiện tình trạng
hiện tại.
Khi
cầu nguyện về Nguyên Lý và Nền Tảng trong ngày đầu tiên, chúng ta đã xin ơn
Bình Tâm: chọn Thiên Chúa và ý định của Thiên Chúa trên hết, còn những sự khác
thì sao cũng được, dù là giữa nghèo và giầu, danh vọng hay xỉ nhục, ...! Hôm
nay khi cầu nguyện về “ngày Y-nhã”, chúng ta đã biết giầu có, danh vọng và kiêu
ngạo là những cạm bẫy của ma qủy; và nghèo khổ, xỉ nhục là con đường đích thực
mà Chúa Yêsu dạy chúng ta.
Chúng
ta đã xin Chúa cho chúng ta được yêu Chúa Yêsu đến độ xin chọn nghèo và xỉ nhục
với Ngài chưa?
Nghèo
tinh thần là không bám víu vào tạo vật, dù là tiền bạc hay ai đó; Xin ơn nghèo
tinh thần, tức là xin Chúa ơn không bám víu vào tiền bạc hay bất cứ một tạo vật
nào.
Con
người có bản năng được tôn trọng. Xin ơn được xỉ nhục[17], là tự hủy,
là từ bỏ chính mình với ý riêng và tất cả con người của mình.
Chúa
Yêsu nói: “phúc cho các ngươi là kẻ nghèo ... khốn cho các ngươi là kẻ giầu”
(Lc.6,20.24), “phúc cho các ngươi khi người ta xỉ mạ, nói xấu các người đủ điều
vì cớ Ta và vì Tin Mừng, hãy hân hoan vì phần thưởng của các ngươi lớn thật ở
trên trời” (Mt.5,11-12 Lc.6,22).
Chúng
ta có tin lời đức Yêsu là chân lý, và chúng ta có muốn sống theo Lời Ngài
không? Nếu chúng ta tin thật, ắt chúng ta đã xin Chúa cho chúng ta được ơn xỉ
nhục và ơn nghèo thực sự! Nếu chúng ta yêu Chúa Yêsu nhiều thì chắc chúng ta đã
dám xin cho được đồng hình đồng dạng với Ngài, ngay cả trong nghèo và xỉ nhục
khinh chê.
Cái
gì là mười ngàn dollars của tôi?
Mười ngàn dollars của tôi có thể không là tiền bạc,
nhưng có thể là tương quan với ai đó, hay một địa sở, một nghề nghiệp, một công
việc, một tặng vật nào đó, v.v.
Trong
qúa khứ tôi ở mẫu người thứ mấy?
Và
hiện tại tôi ở mẫu người thứ ba không?
Không
phạm tội trọng, không muốn làm mất lòng Chúa và bình tâm, yêu Chúa đến độ muốn
trở nên giống Chúa trong khó nghèo khổ nhục: đó là ba cấp độ của tình yêu
(LT.165-167). Tôi có muốn được liệt
vào số những người muốn trổi trang trong việc phụng sự Chúa, tức những người yêu
Chúa trong cấp độ khiêm nhường thứ ba không? Tôi có chọn nên giống Chúa Yêsu
hơn không, nghĩa là chọn nghèo với Chúa nghèo hơn là được giầu sang, chọn bị xỉ
nhục và khinh chê với Đức Yêsu bị xỉ nhục và khinh chê hơn là được tôn trọng,
chọn bị coi là ngu dại với Chúa Kitô bị coi là ngu dại hơn là được coi là khôn
ngoan thông thái ở đời không?
Tuần
thứ ba của Linh Thao cầu nguyện về đức Yêsu chịu khổ hình. Đức Yêsu đối diện
biến cố khổ nạn với tất cả sự run en sợ sệt như chúng ta mọi đàng, nhưng Ngài
sẵn sàng vâng theo Ý Cha vì yêu thương Cha và yêu thương con người.
Cố
gắng đi vào tâm tình của đức Yêsu trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời
tại thế này. Ngài tê tái lòng biết bao khi thấy một người thân yêu sẽ phản bội
và nộp Ngài: tình yêu của Ngài bị từ khước, bị phản bội. Ngài đã ghê sợ thập
giá và cái chết, đặc biệt trong vườn dầu, nhưng Ngài đã vâng lời cho đến chết
mà không một lời oán than. Hãy đi vào tâm tình của đức Yêsu, và ý thức rằng:
chính vì tôi và cho tôi mà đức Yêsu đã chấp nhận tất cả những sự ấy.
Tình
yêu không hoàn toàn được diễn tả bằng lời nói nhưng chủ yếu bằng việc làm.
Trong cuộc sống tại thế này, dường như thập giá gắn liền với tình yêu: thập giá
là cách thế tuyệt diệu diễn tả tình yêu. Không thể hiểu được thập giá nếu không
nhìn trong nhãn quan tình yêu.
Hiểu
Chúa, để yêu Chúa và theo Chúa hơn. Chúa đã chết vì yêu tôi, tôi phải làm gì và
phải có thái độ nào đối với Người yêu tôi dường ấy?
Xin
cho mình hiểu nỗi đau buồn của Chúa (Yn.13 Mc.14); tại sao Chúa phải chịu đau
khổ cô đơn[18] như vậy?
Phải chăng Chúa chịu tất cả những điều đó vì yêu thương tôi vô cùng?
Xin
cho mình cảm nghiệm được tình yêu của Chúa đối với mình; xin cho mình yêu lại Chúa
đến độ ao ước được chia sẻ nỗi đau buồn của Chúa, muốn được đồng hình đồng dạng
với Đấng yêu thương mình vô cùng như vậy.
Thánh
Y-nhã dạy: “xin cho mình được đau đớn, hối hận và xấu hổ, vì chính bởi tội tôi
mà Chúa phải bị khổ hình như vậy” (LT.193); “xin cho mình được đau đớn với Chúa
Kitô thống khổ, tan nát cõi lòng với Chúa Kitô tan nát tâm hồn, được ơn khóc
lóc và đau đớn trong lòng vì bao đau đớn mà Chúa Kitô đã chịu vì tôi” (LT.203).
Chúng ta có
thể dùng những đoạn Kinh Thánh sau, hoặc dùng những đoạn nào theo như mình thấy
thích hợp:
·
Aâm mưu giết đức Yêsu
(Mc.14,1-2.10-11);
·
Làm sao Ta có thể quên
ngươi (Hs.11,1-9);
·
Ta tự mình hiến mạng
sống Ta (Yn.10,17-31);
·
Yêu thương là phục vụ
(Yn.13,1-17);
·
Yêu thương là hiến dâng
(Lc.22,14-20);
·
Hãy tin Thầy, hãy yêu
Thầy (Yn.14,1-15,8);
·
Hãy ở lại trong tình
yêu Thầy (Yn.15,9-17);
·
Báo trước Phêrô chối
Thầy (Mc.14,26-31);
·
Đức Yêsu chiến đấu với
chính mình ở vườn dầu (Mc.14,32tt);
·
Yuđa nộp Thầy bằng “dấu
chỉ tình yêu” (Mc.14,43-52);
·
Đức Yêsu bị xử trước
tòa Do Thái (Mc.14,53-65);
·
Phêrô chối Chúa
(Mc.14,66-72);
·
Đức Yêsu bị xử trước
tòa Roma (Yn.18,28-19,16);
·
Đức Yêsu trước tòa
Hêrôđê (Lc.23,8-12);
·
Con đường tình yêu
(Mc.15,15-32);
·
Đức Yêsu trên thập giá
(Mc.15,33-41);
·
Đức Mẹ dưới chân thập
giá (Yn.19,25-27);
·
Chứng nhân thinh lặng;
·
Sinh thì và táng xác
(Mc.15,37-47);
·
Tâm tình của những
người yêu thương đức Yêsu trong những ngày khổ nạn;
·
Tv.22;
·
Đức Yêsu, người tôi tớ
chết thay nhiều người (Ys.52,13-53,12);
·
Đức Yêsu chu toàn sứ mạng
dù phải chết thập giá (Pl.2,6-11).
Chúng
ta bước sang tuần thứ tư của Linh Thao: cầu nguyện về đức Yêsu Phục Sinh.
Khi
đức Yêsu còn tại thế và trước cuộc khổ nạn, chưa có ai biết rõ đức Yêsu là
Thiên Chúa. Dù Ngài đã ba lần loan báo rằng Ngài sẽ bị bắt, bị đánh đòn, bị
giết và ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại; nhưng khi Ngài bị bắt và chết, không có
ai tin Ngài sẽ sống lại; thậm chí khi Ngài đã sống lại và hiện ra cho các phụ
nữ, và họ đi báo tin cho các tông đồ, thế mà các tông đồ cũng không tin
(Mc.16,9-11).
Để
tin đức Yêsu đã sống lại, có lẽ không tuyệt đối cần các tông đồ[19]; nhưng để
tin đức Yêsu là Thiên Chúa, chắc chắn cần lời chứng của các tông đồ[20].
Chính
nhờ tin vào đức Yêsu Phục Sinh mà các tông đồ nhận biết Thánh Thần là Thiên Chúa:
nhờ Thánh Thần đức Yêsu trao ban khi Ngài hiện ra cho các tông đồ (Yn.20,22) mà
các tông đồ nhận biết đức Yêsu là Thiên Chúa, và cũng nhờ đức Yêsu Phục Sinh mà
các tông đồ nhận biết Thánh Thần là Thiên Chúa.
Thánh
Y-nhã viết trong LT.221: “Xin điều tôi ao ước. Ở đây xin ơn để cảm nghiệm sâu
xa và mãnh liệt niềm hân hoan và vui mừng vì vinh quang và vui mừng của đức
Kitô Chúa chúng ta”.
Niềm
vui mừng và hân hoan ở đây là niềm vui mừng và hân hoan tận thâm sâu trong tâm
hồn, do cảm nghiệm Chúa đã phục sinh, nhờ đó niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng
Trung Tín được củng cố; và một khi tin Chúa Phục Sinh là Thiên Chúa, con người
chúng ta nhận biết Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và như vậy chúng ta
hân hoan và vui mừng.
Niềm
hân hoan và vui mừng này không ai có thể lấy mất được, vì “dù thiên thần thiên
phủ, dù hiện tại tương lai, dù chiều cao hay chiều sâu, hay bất cứ tạo vật nào
khác, không có gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Chúa
Kitô” (Rm.8,38-39).
Dù
Kinh Thánh không nói Chúa Phục Sinh hiện ra cho Mẹ Maria, nhưng thánh Y-nhã đề
nghị chiêm niệm “Chúa Phục Sinh hiện ra cho Mẹ” (LT.218-225). Nếu ai chấp nhận
quan điểm của thánh Y-nhã, thì có thể cầu nguyện dựa vào bài chiêm niệm trên và
những đoạn Kinh Thánh sau, còn nếu không chấp nhận thì có thể chỉ dùng những
bản văn Kinh Thánh để cầu nguyện mà thôi.
Các
bản văn Kinh Thánh được đề nghị:
·
Chúa Phục Sinh hiện ra
với chị Maria Magdala (Yn.20,11-18);
·
Chúa Phục Sinh hiện ra
cho các tông đồ và trao phó sứ mạng (Yn.20,19-23);
·
Chúa Phục Sinh đổi đời
hai môn đệ Emmau (Lc.24,13-35);
·
Chúa Phục Sinh củng cố
đức tin của Thomas (Yn.20,24-29);
·
Chúa Phục Sinh chăm sóc
các tông đồ bên bờ hồ Galilê (Yn.21,1-14);
·
Cứng lòng và ngoan cố
trước biến cố Đức Yêsu Phục Sinh (Mt.28,11-15);
·
Chúa Yêsu Phục Sinh lên
trời (Cv.1,6-11);
·
Chúa Yêsu Phục Sinh
luôn ở với chúng ta (Mt.28,16-20);
·
Chúa Phục Sinh hứa ban
Thánh Thần (Yn.14,15-26);
·
Thánh Thần sẽ làm chứng
về Ta (Yn.15,26-16,15);
·
Thánh Thần tỏ hiện trong
ngày lễ Ngũ Tuần (Cv.2,1-41);
·
Nhân danh đức Yêsu
Nadarét, anh hãy đứng dậy mà đi (Cv.3,1-26);
·
Phêrô làm chứng cho
Chúa Yêsu Phục Sinh trước chính quyền (Cv.1-22);
·
Từ khi biết Đức Yêsu
Kitô, tôi coi tất cả như phân bón (Pl.3,1-4,1).
Đây
là bài cầu nguyện cuối cùng trong sách Linh Thao của thánh Y-nhã.
“Xin
ơn nhận biết thâm sâu về tất cả ơn lành mình đã lãnh nhận, để rồi một khi đã
nhận ra thì mình có thể yêu mến và phụng sự Chúa Chí Tôn trong mọi sự”
(LT.233).
Làm
sao để cảm nhận Thiên Chúa luôn hiện diện và yêu thương mình trong từng giây
phút của cuộc sống, để rồi mình yêu lại Chúa và phục vụ Ngài trong mọi nơi mọi
lúc, đó là mục đích của bài cầu nguyện này.
Yêu
là trao tặng người yêu những gì mình có (LT.231). Nếu Thiên Chúa đã tặng ban
cho chúng ta tất cả, ngay cả những gì qúy nhất với Ngài là Chúa Con và Chúa
Thánh Thần, thì chúng ta phải dâng gì lại cho Chúa đây?
Với
“kinh dâng hiến”, thánh Y-nhã dạy chúng ta dâng tất cả cho Thiên Chúa, và chỉ
xin Ngài một điều duy nhất “XIN LÀM CHO CON YÊU CHÚA, và ơn đó là đủ cho con”
(LT.234).
Một
bận tâm của người làm Linh Thao “đạt kết qủa” là, làm sao để duy trì và phát
triển ơn Linh Thao?
Đây
là một bận tâm rất chính đáng!
Linh
Thao không là kết thúc hay điểm cực đại của đời sống thiêng liêng, nhưng nó là
khởi đầu của một giai đoạn sống mới thân
thiết hơn với Chúa và quảng đại hơn với anh chị em.
Nguyên tắc tổng quát: mỗi ngày tiếp tục
làm điều đã tập trong thời gian Linh Thao. Một cách cụ thể, luôn sống với ý thức Chúa đang hiện diện với
mình và yêu thương mình, chấp nhận mọi biến cố xảy tới với mình trong niềm tin
“Thiên Chúa có thể làm nó thành tốt đối với mình”, hy sinh liên lỉ nhất là giữ
gìn ngũ quan để luôn kết hiệp với Chúa.
Tâm
tình của Thánh Vịnh 139 (138): Thiên Chúa luôn yêu thương và nhìn xem săn sóc
mình. Chúa Yêsu dạy: “Chúa Cha và Ngài luôn ở với chúng ta” và “Thánh Thần luôn
ở với chúng ta” (Yn.14,23.16). Thiên Chúa luôn ở với chúng ta vì Ngài yêu
thương ta. Chúng ta cần ý thức rõ điều này, để luôn sống với tâm tình Thiên
Chúa luôn hiện diện với mình.
Nếu
Thiên Chúa luôn ở với chúng ta, chúng ta đâu còn cô đơn nữa; cho dù tất cả có
bỏ chúng ta thì Thiên Chúa vẫn không bao giờ bỏ chúng ta: Người luôn yêu thương
chúng ta.
Nếu
Thiên Chúa yêu thương chúng ta như vậy, chúng ta còn sợ gì nữa? Nếu Thiên Chúa
yêu thương chúng ta như vậy, chúng ta không cảm thấy yên tâm và hạnh phúc sao?
Sống
tâm tình Chúa luôn hiện diện, là đã khởi đầu giờ cầu nguyện liên lỉ.
Thiên Chúa vẫn nói với chúng ta mỗi
ngày bằng nhiều hình thức khác nhau: qua lương tâm, những gì lý trí nhận thấy
qua những biến cố, ngay cả những biến cố trái ý mình, lời nói của người này
người kia, trang sách này tập vở kia. Như vậy, chúng ta phải lắng nghe Chúa qua
mọi dấu chỉ trong cuộc sống, trong từng biến cố của cuộc sống thường ngày.
Lắng nghe và thực hiện Ý Chúa, chấp
nhận và lấy Ý Chúa làm ý mình, đó là kết hiệp với Thiên Chúa trong hành động.
Giờ
cầu nguyện chính thức là cao điểm của giờ cầu nguyện liên lỉ suốt này; kết hiệp
với Thiên Chúa trong giờ cầu nguyện là cao điểm của tiến trình kết hiệp với
Thiên Chúa trong suốt ngày.
Từ
bỏ mình liên lỉ, quảng đại với Chúa, sẽ giúp mình dễ dàng cầu nguyện hơn, dễ
dàng gặp Thiên Chúa hơn.
Từ
bỏ mình, chấp nhận trái ý vì ích lợi của tha nhân, giữ gìn ngũ quan để luôn
sống thân thiết với Thiên Chúa, luôn vâng phục thánh ý Chúa trong từng biến cố
nhỏ, chọn Thiên Chúa trên hết, là dấu chỉ cho thấy mình đang thuộc về Thiên
Chúa.
Linh
Thao chỉ là khởi đầu của một giai đoạn mới trong đời sống thiêng liêng. Xin
Chúa giúp chúng ta quảng đại với Chúa, để chúng ta tăng trưởng mỗi ngày một hơn
về đời sống thiết thân với Chúa, bằng:
·
ý thức liên lỉ Thiên
Chúa luôn yêu thương và hiện diện với chúng ta,
·
sẵn sàng vâng phục
Thánh Ý Thiên Chúa,
·
từ bỏ mình,
·
xét mình và xét gẫm mỗi
ngày.
AD MAIOREM
DEI GLORIAM
CHO VINH
DANH CHÚA HƠN
14.03.1995
25.04.95
19.06.95
LNC
141252
HOME CHIA SẺ LỜI CHÚA LINH ĐẠO THẦN HỌC ĐỜI SỐNG SOME THEMES IN
ENGLISH
HIỆN
TẠI MỚI QUAN TRỌNG BẠN ĐƯỜNG LINH THAO
ĐỂ TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC HƠN
LINH
THAO MƯỜI NGÀY LINH THAO TRONG CUỘC SỐNG ĐẶC SỦNG DÒNG TÊN SÁCH LINH THAO
CỦA THÁNH YNHÃ
Chúc bạn an vui hạnh phúc.
phamthanhliem
[1] Mỗi bài cầu nguyện đều có ơn xin, có thể coi như yêu cầu của bài cầu nguyện.
[2] Thực ra, tội không thuộc bản tính con người. Con người có thể không phạm tội. Phạm tội hay không là tùy tự do mỗi người.
[3] “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ez.33,11).
“Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (I Tm.2,4).
[4] Cũng xảy ra trường hợp có veû được an ủi, nhưng không phải là an ủi thực; trường hợp này là do ma qủy giả dạng thần lành để đánh lừa người ta (2Cor.11,14), làm người ta đi theo đường của nó, nhưng nếu theo nó, người ta sẽ cảm thấy bất an bối rối, vì không đi trên con đường Thiên Chúa muốn (LT.332-333).
[5] Lấy Ý Thiên Chúa làm ý mình.
[6] Xem ghi chú của FranVois Courel, sj, trong SAINT IGNACE DE LOYOLA, Exercices Spirituels, DESCLÉE DE BROUWER 1960, p.65 note 2.
[7] Tuy vậy cần lưu ý về tình trạng biếng lười của mình; có người không muốn dùng điểm vì họ làm biếng suy nghĩ cầu nguyện.
Cũng có bài cầu nguyện cần dùng tất cả số điểm được cho, như trường hợp bài cầu nguyện về “Tội tôi” (LT.55 tt).
[8] Khao khát nên thánh, là hành vi đã được lý trí tự do hướng dẫn.
[9] Với tác động của Thiên Chúa, tự do của con người luôn được bảo toàn.
“Xin thánh ... làm cho người em con trở lại”. Thánh... không thể làm được điều này nếu “em con” không đồng ý; nhưng Thiên Chúa có thể làm được mà người “em con” vẫn hoàn toàn tự do.
[10] Không vị lợi, có cái nhìn trưởng thành về đời sống gia đình và dâng hiến, không bị quyến luyến lệch lạc chi phối.
[11] Lấy con người cảm tính của mình làm tiêu chuẩn chọn lựa.
[12] Như vậy không nên lạm dụng cách chọn lựa theo thánh Y-nhã, như thể cứ làm theo cách thức đó, thì đã là làm việc lựa chọn đúng đắn!
[13] Nếu ai đó không bình tâm mà làm lựa chọn, thì cuộc chọn lựa đó không được coi là cuộc chọn lựa có giá trị.
[14] Ở một nghĩa nào đó, không quyết định cũng là quyết định, không chọn lựa cũng là chọn lựa.
Nếu không thấy rõ thì đừng quyết định. Cụ thể, trong trường hợp lựa chọn bậc sống, nếu không thấy rõ Chúa muốn mình sống bậc sống khác, thì cứ sống trong bậc sống mình đang sống.
[15] Điều này không muốn nói rằng người đó không bị đau khổ hoặc thập giá trong cuộc sống.
[16] Đương nhiên phải hiểu là nếu chúng ta vẫn quảng đại với Chúa: vẫn luôn kết hiệp với Chúa liên lỉ trong suốt ngày sống, vẫn luôn giữ tâm trí và giữ gìn ngũ quan.
Nếu sau chọn lựa mà chúng ta cầu nguyện dở hơn trước dù chúng ta vẫn quảng đại với Chúa như trước, thì phải tìm nguyên do, cũng có thể tại mình chọn điều Chúa không muốn.
[17] Xin nghèo là từ bỏ những gì ngoài mình; xin xỉ nhục khinh chê là từ bỏ chính mình. Nhiều người có thể xin được nghèo nhưng không dám xin được xỉ nhục với Chúa.
[18] Như thể Chúa Cha cũng bỏ Ngài (Mc.15,34).
[19] Nếu ai đó tin lời chị Maria Magdala (Yn.20,18), thì biết đức Yêsu đã sống lại, mà không cần nhờ lời chứng của các tông đồ.
[20] Chính vì thế, Hội Thánh Công Giáo tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “tôi tin Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”. “Hội Thánh được xây trên nền tảng các tông đồ”, dĩ nhiên khi nói như vậy, vẫn phải hiểu: Hội Thánh có nền tảng là chính Thiên Chúa.