HOME CHIA SẺ LỜI CHÚA LINH ĐẠO THẦN HỌC ĐỜI SỐNG SOME THEMES IN ENGLISH
HIỆN TẠI MỚI QUAN TRỌNG BẠN ĐƯỜNG LINH THAO ĐỂ TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC HƠN
LINH THAO MƯỜI NGÀY LINH THAO TRONG CUỘC SỐNG ĐẶC SỦNG DÒNG TÊN SÁCH LINH THAO CỦA THÁNH
YNHÃ
LINH THAO MƯỜI NGÀY
NHỮNG ĐIỂM GỢI
Ý GIÚP CẦU NGUYỆN
Jptl
11. Các
ngươi tìm gì (Yn.1,35-51)
12. Thiên
Chúa dò xét tôi (Tv. 139)
13. Thiên
Chúa yêu tôi vô cùng
14. Thiên
Chúa quan phòng (Mt.6,25-34)
22. Hồi
niệm (năm bài: từ bài 11 đến bài 21)
31. Hồi
niệm (hai bài Tội và Tội tôi)
32. Trở nên
con cái Thiên Chúa (Mt.25,31 tt)
34. Những
người mù thiêng liêng (Yn.9,1tt)
41. Chị phụ
nữ thống hối (Lc.7,36tt)
42. David
thống hối (Tv.51/50)
Thánh
Y-nhã đã cho in quyển Linh Thao vào năm 1548 với phép của đức giáo hoàng
Phao-lô III, và quyển sách nhỏ này đã là thủ bản của những người hướng dẫn Linh
Thao và đặc biệt là của yêsu-hữu.
Kinh
nghiệm với Thiên Chúa qua Linh Thao tuy giống nhau, nhưng mỗi người lãnh nhận
theo cách thức của mình. Cũng tương tự như vậy, khi giúp Linh Thao, mỗi người hướng
dẫn theo cách thức và kinh nghiệm với Thiên Chúa của mình, và tôn trọng Thánh
Thần tác động nơi mỗi người làm Linh Thao.
Dưới
đây là những bài gợi ý giúp cầu nguyện cho một khóa Linh Thao 10 ngày. Cũng cần
biết, những người giúp Linh Thao khác, và ngay cả tác giả viết điều này, có thể
thay đổi những đoạn Kinh Thánh được dùng, cũng như triển khai những gợi ý theo
như người đó thấy tốt nhất để làm vinh danh Thiên Chúa hơn.
Khung cảnh
Như
thể mình đang hiện diện tại nơi đức Yêsu ở, khi Ngài mời hai môn đồ tới xem, có
lẽ dưới một lùm cây hay trong một hốc đá.
Ơn xin
Xin
khao khát và tìm gặp Chúa; xin cảm nghiệm được Chúa đặc biệt trong cuộc Linh
Thao này.
Điểm
Hai
môn đệ này ao ước và khao khát gì, mà đã bỏ công việc mình đang làm, bỏ người
thân yêu tại nhà, để tới làm môn đệ của Yoan Tẩy Giả?
Hai
môn đệ này khao khát và tìm kiếm gì, mà đã bỏ thầy cũ của mình là Yoan Tẩy Giả,
để đi theo Đức Yêsu, một khi nghe Yoan giới thiệu Đức Yêsu: “Đây Chiên Thiên
Chúa, đây là Đấng gánh tội trần gian”?
Hai
môn đệ này tìm kiếm gì, mà Yoan Tẩy Giả không đáp ứng được mong ước của họ?
Có
những cuộc gặp gỡ, dù mới lần đầu tiên cũng đã gây ấn tượng, đến độ người ta
không quên:
“Oâi cái
phút ban đầu lưu luyến ấy,
ngàn năm hầu dễ mấy ai quên!”.
Hai môn đồ đã đi theo đức Yêsu, và họ đã nhớ “như in”
cuộc gặp gỡ này: “lúc đó vào khoảng giờ thứ mười”.
Sau
cuộc gặp gỡ này với đức Yêsu, Anđrê đã giới thiệu em mình là Simon với đức
Yêsu, và đức Yêsu đã đổi tên cho Simon thành Kêpha. Đổi tên là đổi vận mạng,
đổi đời một người.
Đức
Yêsu đã gặp Philip, và Philip đã được biến đổi.
Philip
gặp Nathanael, và thuyết phục Nathanael tới gặp đức Yêsu dù Nathanael có thành
kiến về Nazaret; rồi khi Nathanael gặp đức Yêsu, thì ông cũng được biến đổi.
Gặp
gỡ đức Yêsu, mà không cố tình chống lại tác động của Thánh Thần, thì sẽ được
biến đổi.
Trong
đời sống đã qua, tôi đã miệt mài tìm kiếm điều gì, cái gì[1]?
Hiện
tại tôi mong ước khao khát và tìm kiếm điều gì?
Tôi
mong ước khao khát điều gì trong cuộc Linh Thao này?
Tôi có mong ước khao khát được gặp Thiên Chúa không?
hay tôi đi tìm kiếm tư tưởng mới về Thiên Chúa, hay tìm biết một cách thức cầu
nguyện, hay tìm xem có cái gì “trong đó” mà nhiều người muốn làm Linh Thao như
vậy?
Tâm sự
Thân
thưa với Chúa về những khát vọng ao ước của mình, xin Ngài chỉnh đốn nếu những
khát vọng đó chưa trong sáng lắm, và xin Ngài làm bùng cháy nơi mình khát vọng
ao ước khao khát Ngài.
Khung cảnh
Như
thể tôi đang ở trước ngai tòa Thiên Chúa, cùng đức Maria và toàn thể triều đình
thiên quốc.
Ơn xin
Xin
cho tôi không chỉ biết nhưng còn cảm nghiệm rõ Thiên Chúa yêu thương tôi trong
từng biến cố của đời tôi:
tôi có trong chương trình của Ngài từ đời đời,
Ngài luôn can thiệp vào đời tôi để tôi
được như hôm nay.
Điểm
Trong
bài cầu nguyện này, chúng ta cứ đọc chậm chậm Thánh Vịnh, rồi thấy chỗ nào mình
thích thì dừng lại suy nghĩ, và nói chuyện thân thưa với Thiên Chúa như lòng
mình muốn.
Thiên
Chúa dò xét con và Ngài biết, biết cả khi con đứng con ngồi, con nghĩ tưởng gì,
Ngài thấu suốt từ xa.
Thiên
Chúa không chỉ thấy mình, nhưng Ngài dò xét mình, Ngài biết:
từng tư thế, cử chỉ, thái độ của mình;
từng lời nói của mình;
tư tưởng thâm sâu và những toan tính của mình.
“Bàn
tay của Ngài, Ngài đặt trên tôi”, “Ngài chặn tôi trước, Ngài ngừa tôi sau”,
“Ngài bao bọc tôi cả sau lẫn trước”. Thiên Chúa luôn can thiệp vào đời tôi để
gìn giữ tôi trong tình yêu Ngài cho đến hôm nay, vì Ngài rất yêu tôi.
Đi mãi đâu
cho thoát thần trí Ngài,
Lẩn nơi nào
cho khuất được Thánh Nhan?
Tác
giả thánh vịnh dường như đã có một lúc nào đó muốn trốn Thiên Chúa, nhưng rồi
... trốn không được! Dù lên trời cũng có Chúa, xuống âm ti lòng đất cũng lại
gặp Ngài , sang đông cũng gặp sang tây cũng gặp, và ngay cả trong đêm tối âm u
Thiên Chúa cũng biết hết, không gì che dấu được Ngài.
Không
gì trong đời mình có thể che dấu được Thiên Chúa, không gì về mình mà Thiên
Chúa lại không biết.
Rồi
một lúc nào đó tác giả thánh vịnh chợt ngộ ra:
Tạng phủ
con, chính Ngài đã cấu tạo,
Dệt tấm hình
hài trong dạ mẫu thân con.
Tác
giả thánh vịnh nhận ra mình là tạo vật của Thiên Chúa, là công trình tay Ngài
sáng tạo. Cha mẹ sinh ra mình nhưng chính Thiên Chúa mới là Đấng tạo thành
mình, mới là Cha đích thực của mình. Bởi vì mình được sinh ra, đâu phải hoàn
toàn do ý cha mẹ mình muốn? Có thể cha mẹ mình muốn sinh ra một cô con gái
nhưng lại sinh ra một cậu con trai, có thể cha mẹ tôi muốn sinh ra một cậu con
trai nhưng lại sinh ra một cô con gái; có bao cặp vợ chồng không muốn sinh con
nữa nhưng lại vẫn có con, còn có bao cặp vợ chồng chỉ ao ước có một mụn con
nhưng không thể có!
Thiên
Chúa tạo dựng nên mình, nên Ngài yêu thương mình, Ngài để ý tới mình từng chút
xíu, không gì thâm sâu kín ẩn nơi mình mà Thiên Chúa không biết. Hơn nữa, Ngài
còn có cả một chương trình tuyệt diệu về tôi, để yêu thương tôi. Tại sao tôi
lại sợ Chúa và muốn trốn Chúa?
Khi
đã nhận chân ra sự thật, tác giả thánh vịnh không còn muốn trốn Chúa nữa; Lúc
này thay vì muốn trốn, tác giả lại muốn và xin Thiên Chúa dò xét mình, để gìn
giữ mình! Bây giờ, thay vì sợ và muốn xa Chúa, tác giả lại muốn được ở gần
Chúa:
Lạy Chúa,
xin dò xét để biết rõ lòng con,
Xin thử con để biết những điều con nghĩ.
Xin Ngài xem con có lạc vào đường gian ác,
thì dẫn con trở lại chính lộ ngàn đời.
Tâm sự
Hãy
nói chuyện với Thiên Chúa như mình cảm nhận nơi lòng mình về Thiên Chúa; Ngài
là Đấng luôn yêu thương và chăm sóc mình, từ chuyện nhỏ cho đến chuyện lớn, từ
lúc mình còn là bào thai nằm trong dạ mẹ cho đến lúc mình da mồi tóc bạc, và từ
khi được sinh ra cho tới lúc xuống mồ.
Xin
Chúa hãy làm những gì Chúa muốn làm nơi con, vì những gì Chúa làm cho con đều
rất tốt đẹp. Con tin điều đó, và con biết đó là sự thật.
Khung cảnh
Như
mình đang hiện diện trên đồi Canvê buổi chiều năm ấy,nhìn Chúa Yêsu chết thê
thảm trên thập giá: người rũ xuống, trần trụi, thân thể không chỗ nào lành,
gương mặt biến dạng vì bị đánh, đầy vết máu.
Ơn xin
Xác
tín và cảm nghiệm Thiên Chúa yêu thương tôi vô cùng, yêu tôi đến độ ban tặng
tôi điều qúy nhất với Thiên Chúa là Con Một của Ngài, đến độ Ngài luôn ở với
tôi.
Điểm
Có
tình yêu nào diễn tả và so sánh được tình yêu của Thiên Chúa, cụ thể là tình
yêu giữa Thiên Chúa Cha và Chúa Yêsu? Chúa Cha yêu Chúa Yêsu vô cùng!
Nhờ
Lời Chúa Yêsu, tôi biết Thiên Chúa Cha yêu tôi vô cùng, Ngài yêu tôi như yêu
Chúa Yêsu “... Cha yêu chúng như Cha yêu Con” (Yn.17,23). “Chúng” ở đây là các
tông đồ, và cũng là những người nhờ các tông đồ mà tin vào Chúa Yêsu
(Yn.17,20).
Chúa
Cha yêu thế gian, và cụ thể là yêu tôi đến độ ban Con của Người cho thế gian:
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến độ ban Con của Người cho thế gian...”
(Yn.3,16). Tại sao Thiên Chúa lại tin con người đến độ trao Con Cưng của Người
cho con người? Và họ đã giết Ngài! Tại sao Thiên Chúa tin con người như vậy?
Phải chăng vì Người yêu con người?
Trong
bữa tiệc vượt qua cuối cùng với các tông đồ, thánh sử nói: “Đức Yêsu, đã đến
giờ Ngài qua khỏi thế gian mà đến cùng Cha, đã yêu những kẻ thuộc về Người còn
trong thế gian, thì Ngài yêu thương họ đến cùng” (Yn.13,1).
Chúa
Yêsu yêu tôi vô cùng, yêu đến độ hiến mạng sống cho tôi: “Không có tình yêu nào
lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình” (Yn.15,13).
Chúa
Yêsu yêu tôi như Chúa Cha yêu Chúa Yêsu, và không những thế, Ngài xin tôi hãy
yêu Ngài, hãy ở lại trong tình yêu của Ngài: “Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy
cũng yêu mến anh em, anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Yn.15,9).
Yêu
ai, thì cho tặng phẩm qúy nhất.
Qúy
nhất với Chúa Cha và Chúa Yêsu là Thánh Thần. Thế mà Chúa Cha và Chúa Yêsu yêu
con người đến độ ban Thánh Thần cho con người (Yn.14,16;15,26).
Yêu
ai, thì muốn luôn sống bên người đó.
Thánh Thần yêu con người, nên Ngài ở lại mãi với con
người (Yn.14,16).
Và
không chỉ Thánh Thần muốn ở mãi với con người, cả Chúa Cha và Chúa Yêsu cũng
muốn ở mãi với con người (Yn.14,23). Điều đó cho thấy cả Ba Ngôi Thiên Chúa yêu
thương con người vô cùng.
Tâm sự
Xin
Chúa cho chúng ta cảm nghiệm rõ Thiên Chúa yêu chúng ta vô cùng, để một khi cảm
nghiệm tình yêu Thiên Chúa, chúng ta sống bình an và hạnh phúc hơn. Thân thưa
với Chúa vì chúng ta đã không yêu Chúa như Chúa đáng được yêu.
Khung cảnh
Như
thể mình ngồi chung hoà lẫn với dân chúng và các môn đồ trên một ngọn đồi, lắng
nghe Chúa giảng dạy.
Ơn xin
Khao
khát xin ơn xác tín và cảm nhận Thiên Chúa yêu thương mình vô cùng, để mình dám
quảng đại phó thác đời mình cho Thiên Chúa.
Điểm
Đức
Yêsu nói với người thời đó: “chớ lo cho mạng sống mình, ăn gì mặc gì ...”. Chim
trời Thiên Chúa còn nuôi, hoa ngoài đồng Thiên Chúa còn mặc đẹp cho, huống hồ
là con người, không lẽ Thiên Chúa không nuôi và không cho mặc sao? Quân yếu
tin? (Mt.6,30).
Lo
lắng ăn gì mặc gì, đó là chuyện bình thường, người ngoại cũng lo như vậy, và
Thiên Chúa cũng biết chúng ta cần những
điều đó (Mt.6,32).
Nếu
chúng ta lo quá về cơm ăn áo mặc,
nghĩa là, hàm chứa chúng ta muốn định đoạt tất cả, và như vậy phải chăng chúng
ta không tin tưởng rằng Thiên Chúa yêu thương mình?
Thiên
Chúa là cùng đích và ý nghĩa của con người. Chỉ có một điều cần tuyệt đối đối
với con người, đó là Thiên Chúa và tương quan với Ngài.
Chúng
ta có khao khát Thiên Chúa không? Chúng ta có mong ước và cố gắng để nên thánh
không? Một ngày chúng ta dùng bao nhiêu giờ để tìm kiếm Thiên Chúa và những
chuyện thuộc về Chúa? Khi chúng ta đọc kinh, cầu nguyện, tham dự hoặc cử hành
thánh lễ, chúng ta có tham dự và cử hành với trọn cả con người không, hay chúng
ta chỉ hiện diện ở đó với thân xác còn tâm trí tinh thần thì ở chỗ khác?
Nếu
một người là tu sĩ, nếu họ không phải lo về cơm ăn áo mặc, mà họ cũng không lo
tìm kiếm Thiên Chúa và những sự thuộc về Thiên Chúa, thì cuộc đời họ có ý nghĩa
gì? thì họ đi tu, sống đời dâng hiến để làm gì? nếu như vậy thì còn tệ hơn cả
một người ngoài đời!
Chúa
Yêsu trách người ta không tin tưởng vào Thiên Chúa khi họ qúa lo về thân xác,
khi họ không chú ý và tìm kiếm điều quan trọng và cần thiết. Tôi, ngày hôm nay,
có phạm vào lỗi lầm mà Chúa đã trách người xưa không?
Tôi
thực sự đã không tin tưởng vào Thiên Chúa
nếu tôi đã không chấp nhận:
·
con người của tôi như
hồng ân Chúa ban, với thân xác hình dáng dung mạo, cũng như giới hạn về khả
năng thể lý hay tinh thần;
·
nguồn gốc của tôi,
thành phần gia đình của tôi: ông bà cha mẹ anh chị em và ngay cả họ hàng;
·
môi trường sống như
cộng đoàn dòng tu, cộng đoàn giáo xứ, địa phận, đất nước;
·
tôi là người, với những
thử thách và cám dỗ trong cuộc sống.
Tâm sự
Xin
Chúa cho chúng ta cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa đối với mình, để một khi cảm
nghiệm Thiên Chúa yêu thương mình, chúng ta có thể phó thác tương lai đời mình
cho Thiên Chúa, và như vậy chúng ta sẽ sống trong bình an hạnh phúc, vì được
Thiên Chúa yêu thương vô cùng.
Khung cảnh
Như
thể mình hiện diện trong buổi chiều đó trên đồi Canvê, nhìn Chúa chết thê thảm
...
Ơn xin
Xin
cho mình ơn nhận rõ đâu là giá trị đích thực của con người và của đời người, ơn
chọn Thiên Chúa trên tất cả và có thái độ thanh thoát với tạo vật.
Điểm
Con
người được sinh ra để làm gì? Đâu là cứu cánh của con người? Tại sao con người
phải đau khổ nhiều như vậy?
Có
những luận thuyết cho rằng:
·
con người tình cờ hiện
hữu, đời sống con người chẳng có ý nghĩa gì;
·
con người chỉ là vật
chất tiến hóa, chết là hết;
·
con người là trò chơi
của Tạo Hóa “Con Tạo đành hanh”, nếu làm hài lòng Ngài thì hạnh phúc còn nếu
làm mất lòng Ngài thì đau khổ;....
Mặc khải
Kitô giáo cho chúng ta biết: Thiên Chúa tạo dựng con người để con người được
sống và sống hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Thiên Chúa không hề muốn con
người đau khổ, đau khổ là do con người mà ra!
Tôi
có tin điều đã được mặc khải không?
Con
người được tạo dựng cuối cùng. Thiên Chúa đã tạo dựng vạn sự vạn vật để phục vụ
con người, nhằm giúp con người đến với Thiên Chúa. Tiền bạc danh vọng chức quyền, không làm con người hạnh
phúc! “Dù ai giầu ruộng sâu trái núi, đụn lúa kho tiền, bất qúa cũng thủ tài
chi lỗ”.
Thái
độ của con người phải như thế nào trong tương quan với Thiên Chúa và tạo vật?
Nếu
Thiên Chúa là cứu cánh và cùng đích của con người, thì con người phải đặt Thiên
Chúa lên trên hết, và phải chọn những gì thuộc về Thiên Chúa ưu tiên trên những
sự khác: lấy Thiên Chúa và tương quan với Ngài là ưu tiên một, luôn tìm kiếm và
lấy ý Thiên Chúa làm ý mình.
Nếu
tạo vật chỉ là phương tiện, thì ta chỉ được dùng tạo vật trong mức độ nó giúp
ta đến với Thiên Chúa, và phải bỏ nó khi nó ngăn đường cản lối. Như vậy, nếu
điều gì giúp tôi làm vinh danh Chúa hơn thì tôi làm, còn nếu điều gì “làm vinh
danh Chúa” ngang nhau thì sao cũng được dù đó là nghèo khó hay giầu sang, bị xỉ
nhục khinh chê hay được trọng vọng vinh dự, sống lâu hay chết yểu, thông minh
hay ngu dốt, ...!
Bình
tâm, không chỉ là không muốn điều này hơn điều kia khi chúng làm vinh danh Chúa
ngang nhau, nhưng chủ yếu là chọn Thiên
Chúa và ý định của Ngài trên tất cả ngay cả trong trường hợp những điều đó
trái ý mình.
Tâm sự
Sau
mỗi điểm, hãy nói chuyện thân thưa với Chúa dựa theo hiện trạng của mình, xin
Chúa cho mình thấy rõ Chúa mới đáng là tất cả của mình, và tạo vật chỉ là
phương tiện, để mình không qúa quyến luyến nó và không bị lầm lẫn trong từng hành
vi chọn lựa của mình trong cuộc sống mỗi ngày.
Khung cảnh
Như
trong bài 21.
Ơn xin
Xin
được ơn cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa đối với mình, nhờ đó mình bình tâm và
tin tưởng phó thác đời mình cho Thiên Chúa, hầu được bình an thư thái hạnh
phúc.
Điểm
·
Dừng lại những chỗ
trong những bài trước mình đã cảm nghiệm được ít nhiều an ủi, tình cảm thiêng
liêng, hay hiểu biết, để cảm nghiệm sâu hơn nữa;
·
Dừng lại những chỗ
trong những bài trước mình đã bị sầu khổ, để hiểu mình hơn
Tâm sự
Nói
với Chúa như mình thấy về mình và những ơn mình nhận được.
Khung cảnh
Như
thể thấy Đức Yêsu bị đánh đòn, Ngài cảm thấy rất đau. Người ta đã hành hạ và cố
tình làm Ngài đau khổ ...
Ơn xin
Xin
cho mình ơn nhận biết bản chất của tội, và ơn xấu hổ ngượng ngùng vì bao nhiêu
tội mình đã phạm.
Điểm
Thiên
thần được tạo dựng trong ân nghĩa với Thiên Chúa, nhưng có một số thiên thần
không tùng phục Thiên Chúa, họ muốn độc lập với Thiên Chúa, họ muốn thành tuyệt
đối và tự do tuyệt đối, họ muốn bằng Thiên Chúa, họ coi Thiên Chúa là đối thủ
của họ: đó là kiêu ngạo và phản loạn, và như thế là tội.
Các
thiên thần ý thức việc họ làm, một cách tự do và không hối tiếc về việc họ làm,
họ chọn điều họ đã chọn một cách dứt khoát. Ngay “bây giờ”, ma qủy cũng không
hối hận việc họ đã làm, và họ vẫn đang tiếp tục chọn điều họ đã chọn “ngày
xưa”.
Ngày
nay, ma qủy vẫn thù ghét và chống đối Thiên Chúa như ngày xưa, và hậu qủa là
hỏa ngục. Tội và hỏa ngục[2] liên hệ với
nhau, đi liền với nhau như thể bóng với hình, không thể tách khỏi nhau được.
Tội,
không chỉ là không vâng lời khi ăn trái bị cấm, mà chủ yếu là không tin vào
Thiên Chúa nữa, tin vào ma qủy hơn tin vào Thiên Chúa (Stk.3,4-5), không tin
Thiên Chúa yêu mình và muốn điều tốt cho mình.
Không
tin vào Thiên Chúa, không trông cậy và chờ đợi gì nơi Thiên Chúa, từ chối tình
yêu Thiên Chúa dành cho mình, đó là tội.
Khi
con người không tin vào Thiên Chúa, thì con người cũng không thể tin vào nhau,
và nhìn nhau với cặp mắt nghi kỵ (Stk.3,12-13). “Không Trời ai sống được với
ai!?”: Adam trách Evà, Evà đổ tội cho con rắn.
Sau
khi phạm tội, con người muốn trốn Thiên Chúa; không muốn nhận sự thật về chính
mình, đổ tội cho người khác; tìm lý do biện minh.
Nếu
ai đó chỉ phạm một tội thôi, một cách ý thức tự do và dứt khoát, không hối hận
cho đến giờ chết, thì người đó phải sa hỏa ngục, và đáng sa hỏa ngục.
Thực
ra khi phạm tội như vậy, dù người đó chưa sa “hỏa ngục”, nhưng họ cũng đang ở
hỏa ngục rồi, nghĩa là, người đó đang bất hạnh và không muốn thoát khỏi tình
trạng đó, dù Thiên Chúa đã bao lần đề nghị, thúc đẩy người đó trở lại với Ngài.
Thiên
Chúa không muốn con người đau khổ, Ngài muốn con người hạnh phúc. Chính con
người tạo hỏa ngục cho mình, cho dù Thánh Thần Thiên Chúa đã bao lần thúc đẩy
mời gọi họ trở lại với Thiên Chúa.
Tâm sự
Nhìn
Chúa Yêsu chết trên thập giá, tìm hỏi tại sao Ngài đã nhập thể, sinh ra nghèo
hèn, sống đơn sơ đạm bạc, rao giảng trong cảnh nghèo, và cuối cùng chết ô nhục
trên thập giá như vậy, rồi xem tôi đã làm gì cho Chúa, tôi đang làm gì cho Chúa
và tôi sẽ làm gì cho Chúa?
Hãy
nói với Chúa những gì mình phải thân thưa với Chúa.
Khung cảnh
“Tinh
thần thì lanh lẹ nhưng xác thịt thì yếu nhược” (Mc.14,38). Nhìn vào chính con
người mình và ý thức rõ: tôi là tinh thần với thể xác, xác thịt có những đòi
hỏi của xác thịt, và có nhiều lúc tôi phải rất vất vả để vượt qua.
Ơn xin
Khao
khát xin ơn cảm nhận rõ mình là tội nhân, và ơn cảm nghiệm Thiên Chúa yêu
thương mình vô cùng, để mình trở lại với Chúa và thuộc trọn về Chúa.
Điểm
Theo
sát chỉ dẫn của thánh Y-nhã để cầu nguyện bài này, và đây là bài cầu nguyện
phải cầu nguyện đủ năm điểm như thánh Y-nhã chỉ, đặc biệt là điểm thứ năm.
Tâm sự
Thân
thưa với Thiên Chúa Tình Yêu, Đấng yêu thương tha thứ mọi lỗi lầm cho chúng ta.
Khung cảnh
Như
thể hiện diện trên đồi Calvê buổi chiều hôm đó, nhìn Chúa chết thảm khốc cho
tôi vì yêu tôi.
Ơn xin
Khao
khát xin ơn nhận rõ về con người thực của mình, ơn cảm nghiệm Thiên Chúa yêu
thương mình, ơn trở lại và khao khát thuộc trọn về Thiên Chúa.
Điểm và Tâm sự
Như
thánh Y-nhã chỉ trong LT.62-63.
Lưu
ý về quyến luyến lệch lạc:
Quyến luyến lệch lạc là gắn bó với một tạo vật nào đó
không như Thiên Chúa muốn, nó có thể dẫn chúng ta tới tội nếu chúng ta dứt khoát từ bỏ nó, chẳng hạn mình gắn bó
qúa với ai đó, vật gì đó, địa sở, chức vị hay nghề nghiệp nào đó, v.v..
Khung cảnh
Như
thể hiện diện trong ngày Chúa quang lâm cùng các thiên thần, thấy Chúa phân
tách kẻ dữ người lành như thể người ta phân tách dê khỏi chiên.
Ơn xin
Khiêm
tốn nhận thực rằng mình là tội nhân, đã không sống giống Thiên Chúa, không sống
như Thiên Chúa muốn. Xin cho mình lòng thống hối, khao khát bắt đầu một đời
sống mới, sống như Thiên Chúa muốn, sống như những người con giống Cha của mình
là Thiên Chúa.
Điểm
Thánh
Yoan tông đồ diễn tả “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Yn.4,8.16). Thiên Chúa là Đấng
chỉ biết yêu, hay đúng hơn: Ngài làm tất cả vì tình yêu. Thiên Chúa luôn luôn
yêu thương con người, Ngài muốn mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý
(1Tm.2,4). Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được hạnh phúc, ở đời sau và ngay
cả ở đời này nữa.
Vậy
giải thích làm sao “Thiên Chúa là tình yêu”, khi Ngài tạo hỏa ngục để phạt các
thần dữ và con người không phục tùng Người?
Không loại trừ hỏa ngục là nơi để các thần dữ và bè lũ của nó phải đau khổ ở
trong đó; nhưng nếu chỉ hiểu hỏa ngục là một ngục đầy lửa để phạt các thiên
thần dữ, thì hiểu làm sao khi “...đối thủ của anh em là ma qủy như sư tử rống,
nó lượn rình tìm sao nuốt được một ai” (1Pr.5,8). Nếu ma qủy là thiêng liêng,
thì lửa hữu hình đâu có tác động gì? Hơn nữa, nếu Thiên Chúa ở khắp mọi nơi,
thì trong hỏa ngục Thiên Chúa cũng hiện diện, phải chăng hỏangục cũng đốt Thiên
Chúa?
Hỏa ngục còn được hiểu như một tình trạng đau khổ bất hạnh cho một ngôi vị, dù
đó là thiên thần hay con người chống đối Thiên Chúa hay phủ nhận tình yêu của
Ngài. Cũng tương tự hai người thù ghét nhau thì bất hạnh và đau khổ khi ở gần
nhau, những người thù ghét Thiên Chúa cảm thấy đau khổ bất hạnh vì Thiên Chúa
luôn luôn hiện diện ở khắp nơi. Thiên Chúa không tạo ra hỏa ngục để phạt các
thiên thần dữ và con người phản bội, chính họ tạo ra hỏa ngục cho chính họ.
Khi
Phaolô trên đường đi Đama tìm bắt các kitô-hữu để đem về Yêrusalem, dọc đường
ông bị té ngựa, và có tiếng từ trời “Sa-ul, Sa-ul, sao ngươi bắt bớ Ta?”; Sa-ul
hỏi: “Thưa Ngài, Ngài là ai?”; Tiếng đáp rằng: “Ta là Yêsu, ngươi đang tìm
bắt...”(Cv.9,5). Phaolô lúc đó đâu có tìm bắt đức Yêsu, ông đang tìm bắt các
kitô-hữu, tức những người tin vào đức Yêsu thôi; nhưng ở câu trả lời, đức Yêsu
đã đồng hóa mình với các kitô-hữu đang bị bắt bớ.
Còn
trong trình thuật của Mt.25,31-46 này, đức Yêsu đồng hóa mình với những kẻ khốn
nạn nghèo hèn nhất, những người cần chúng ta giúp đỡ nhất (Mt.25,40.45). Ai làm
cho một trong những kẻ nghèo hèn này, là làm cho chính Chúa Yêsu.
Thiên
Chúa không phán xét dựa vào công việc người đó làm, hay chức vụ người đó giữ,
hay nơi chốn người đó ở, hay địa vị người đó có; nhưng Ngài phán xét con người
dựa vào lòng yêu thương người đó có đối với Thiên Chúa và tha nhân.
Thiên
Chúa phán xét, xem tôi có yêu thương tha nhân, những người khốn cùng cần đến sự
giúp đỡ của tôi không?
Những
người cần đến tôi là ai?
·
Trong dụ ngôn người
Samaritanô nhân hậu, là kẻ bị đánh nằm dọc đường;
·
Trong cộng đoàn của
tôi, là những người cảm thấy bị cô độc bỏ rơi, là những người có ác cảm với tôi
mà họ không vượt thắng được chính họ, là những người đang bị khủng hoảng;
·
Trong môi trường của
tôi, là những kẻ cần tới sự giúp đỡ của tôi để phát triển, để trưởng thành hơn,
để hạnh phúc hơn.
Đức
Yêsu, trong buổi tối cuối cùng, Ngài đã nói: “các con hãy yêu thương nhau, như
Thầy đã yêu thương các con” (Yn.13,34), “người ta cứ dấu này mà nhận biết các
con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau” (Yn.13,35). Mười giới răn của
Thiên Chúa tóm lại trong hai điều “trước kính mến Chúa trên hết mọi sự, sau là
yêu anh em như mình ta vậy”, nói tóm lại, mười giới răn của Thiên Chúa cũng chỉ
tóm lại trong một giới răn yêu thương mà thôi.
Ai
yêu thương thì nên giống Thiên Chúa, ai thù ghét anh em thì nên giống ma qủy.
Thiên Chúa là Tình Yêu, là Đấng chỉ biết yêu thương; và ai yêu thương, thì là
con cái Thiên Chúa, vì họ giống Thiên Chúa. Ai nói mình yêu Thiên Chúa, mà ghét
anh em mình, thì đó là kẻ nói dối (1Yn.4,20).
Tâm sự
Xin
Chúa cho mình nhận ra con người thực của mình, đã bao phen hành xử không giống
Thiên Chúa là Cha của mình. Xin cho mình lòng ăn năn thống hối thật, để từ đây
mình yêu Thiên Chúa hơn và yêu anh em hơn, để mình được giống Thiên Chúa hơn và
hạnh phúc hơn.
Khung cảnh
Nhớ
lại ngày khấn long trọng nhất của mình, và tâm trạng thái độ sống đời dâng hiến
của mình lúc bấy giờ.
Ơn xin
Xin
cho mình nhận ra con người thật của mình: một người không chung thủy giữ lời
mình đã khấn hứa với Thiên Chúa; xin cho mình cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa
đối với mình, Ngài đang mời gọi mình trở lại với Ngài, và xin cho mình ơn thống
hối trở lại với Ngài để sống một đời sống mới thuộc trọn về Thiên Chúa hơn.
Điểm
Khi
hai người yêu nhau, họ cho nhau những gì họ có; và tột đỉnh, họ cho nhau chính
con người họ và cuộc đời nhau.
Sống
đời dâng hiến, chúng ta dâng tặng cái gì và cho ai? Chúng ta dâng tặng chính
con người của chúng ta, đời sống của chúng ta cho Thiên Chúa một cách hoàn toàn
ý thức và tự do.
Chúng
ta dâng hiến đời chúng ta cho Thiên Chúa bằng khấn ba lời khấn khó nghèo, trinh
khiết và vâng lời; chúng ta tự nguyện chết cho chính mình và với thế gian khi
thề hứa những lời khấn trên.
Ai
cũng có quyền sở hữu và sử dụng của cải, vì đây là quyền tự nhiên của con
người.
Với
lời khấn thanh bần, chúng ta tự nguyện muốn bắt chước ChúaYêsu, tự do với tất
cả của cải vật chất.
Chúng
ta đã sống điều chúng ta khấn hứa thế nào? Phải chăng mỗi năm, chúng ta lại
chẳng lấy lại một số điều chúng ta đã tự nguyện bỏ? Mỗi dịp về nhà, mỗi khi
người thân quen lên thăm, người này cho người kia cho, tôi đã từ bỏ hay đã giữ
lại để dùng cho chính bản thân mình? hay đã dùng theo ý riêng mình dù
không chỉ cho riêng mình?
Tại
sao tôi lấy lại một cách không chính đáng điều mà tôi đã tự nguyện bỏ, mà chính
sự lấy lại này làm tôi không được tự do và trở thành nhỏ nhen ích kỷ?
Ai
cũng có quyền yêu và được yêu, được có một gia đình xứng hợp.
Là
tu sĩ với lời khấn trinh khiết, chúng ta tự nguyện từ bỏ quyền yêu riêng một
người và từ bỏ quyền lập gia đình, trong đó vợ chồng con cái nâng đỡ nhau để
sống triển nở và hạnh phúc hơn. Không ai bắt chúng ta làm điều đó; sở dĩ chúng
ta làm điều đó, bởi vì mỗi người chúng ta cảm nhận một lời mời gọi để sống
riêng với Chúa và thuộc trọn về Ngài, và chúng ta đã tự nguyện đáp lời.
Và
chúng ta đã sống lời đoan nguyện của chúng ta thế nào? Tại sao với thời gian,
chúng ta đã tìm và lấy lại điều mình đã tự do từ bỏ? Tại sao tôi đi tìm tình
cảm của người này người kia? Tại sao tôi muốn được người này yêu người kia
thương? Tại sao tôi đi tìm những điều đó, khi chính tôi đã tự nguyện từ bỏ lúc tôi
hoàn toàn có quyền được có, và tôi có dư khả năng để có, bởi vì lúc đó đã có
bao người thương yêu tôi? Lúc đó, tôi đã quảng đại vượt lên chính con người của
mình và đã thấy mình trưởng thành hơn, cao thượng hơn; vậy tại sao bây giờ tôi lại cư xử như vậy, tại sao tôi lại
sống như vậy, khi điều này làm tôi trở thành kẻ lường gạt, kẻ nói dối, không
trung thực với chính mình và với người khác?!
Không
phải vì tôi không có khả năng quyết định về cuộc đời tôi mà tôi khấn lời khấn
vâng phục! Cũng không phải vì tôi không có lập trường, không thông minh bằng bề
trên mà tôi khấn vâng phục bề trên. Có thể tôi có lập trường, và lập trường của
tôi còn vững chắc và có lý hơn lập trường của bề trên, và không chừng một cách
tổng quát, tôi còn thông minh hơn cả bề trên nữa, nhưng tôi vẫn khấn lời khấn
vâng phục, bởi vì tôi muốn hiến trọn đời tôi cho Chúa, và để Chúa điều khiển
tôi qua bề trên.
Hôm
nay tôi đã sống lời khấn vâng phục thế nào? Tại sao hôm nay tôi lại muốn bề
trên phải theo ý tôi? Tại sao hôm nay tôi “càm ràm” than trách khi bề trên
không làm điều hợp ý mình? Tại sao tôi còn “ngoi ngóp” muốn sống khi chính tôi
đã tự nguyện chết? Tôi đã không nhất quán với chính tôí! Tại sao tôi nói một
đàng qua lời khấn, rồi tôi lại muốn và làm một điều khác? Qúa tệ!
Chúng
ta, những người sống dâng hiến theo cùng một linh đạo, sống cộng đoàn để nâng
đỡ nhau về mọi mặt, để giúp nhau thuộc trọn về Chúa và phục vụ tha nhân hữu
hiệu hơn. Trên nguyên tắc, chúng ta đã từ bỏ tất cả và thậm chí đến cả con
người chúng ta, nên chúng ta phải thương yêu nhau, và trở thành chứng nhân cho
Thiên Chúa.
Trên
thực tế chúng ta đã sống đời sống cộng đoàn thế nào, chúng ta đã sống đời sống
chứng tá như thế nào, khi chúng ta dạy người khác phải sống yêu thương nhau như
Chúa dạy?
Đã
đành mỗi người mỗi tính nết và có những người không hợp tính nết của nhau,
nhưng nếu không sống được với nhau thì qủa là “qúa dổm” và phản chứng. Nếu
chúng ta không sống thoải mái được với nhau, đó là dấu chỉ cho thấy chúng ta chưa
từ bỏ mình thực sự. Người bạn trong cộng đoàn của chúng ta, là bản thử nghiệm
cho thấy chúng ta đã sống đời sống dâng hiến thế nào!
Tôi
có sống được với người bạn trong cộng đoàn của tôi không? Tôi có hạnh phúc
thoải mái trong đời sống cộng đoàn không? Nếu không, e rằng tôi chưa thực sự
sống đời sống dâng hiến!
Tâm sự
Thân
thưa với Chúa khi đã thấy con người thật của mình, xin Chúa cho mình ao ước bắt
đầu một đời sống mới, thuộc trọn về Chúa hơn, bằng những hành vi từ bỏ chính
mình.
Khung cảnh
Như
thể mình hiện diện với đức Yêsu và các tông đồ trong biến cố Chúa làm cho anh
mù ngồi bên vệ đường ăn xin, được sáng.
Ơn xin
Khao
khát xin ơn nhận biết mình với những tật mù “thành kiến” và “tiêu chuẩn là con
người và sự khôn ngoan theo con người”, làm mình không thấy được sự thật và nét
đẹp của Thiên Chúa và anh em. Xin ơn thống hối và khao khát thuộc trọn về Thiên
Chúa.
Điểm
Đức
Yêsu đã làm phép lạ chữa lành người mù trong ngày sabbat; đối với người biệt
phái, đó là điều không được phép vì họ cho rằng như thế là vi phạm ngày sabbat.
Đầu
tiên, họ không muốn tin rằng phép lạ đó đã thực sự được làm, nên họ đã gọi cha
mẹ người mù tới để kiểm chứng, và sau khi cha mẹ người mù xác nhận, họ đành
chịu (Yn.9,18-21).
Phải
có thái độ và lập trường nào đối với đức Yêsu đây? Đức Yêsu là người thuộc về
Thiên Chúa hay là người tội lỗi? Nếu nói đức Yêsu là người tội lỗi thì làm sao
giải thích được phép lạ Ngài làm, còn nếu nói đức Yêsu là người của Thiên Chúa
thì làm sao giải thích việc đức Yêsu không giữ ngày sabbat? (Yn.9,16).
Cuối
cùng họ đã thống nhất với nhau, cho
rằng đức Yêsu là người tội lỗi (Yn.9,24).
Tại
sao người biệt phái không thể nhận ra được rằng đức Yêsu từ Thiên Chúa mà tới,
Ngài là thánh? Phải chăng vì họ có thành kiến, vì họ không khiêm tốn đủ để nhận
ra sự thật, phải chăng họ bị mù “thiêng liêng”?
Phải
chăng cha mẹ người mù không được anh mù kể lại và không biết người chữa lành
mắt con mình là đức Yêsu khi họ trả lời biệt phái: “Chúng tôi xác nhận nó là
con của chúng tôi, và nó sinh ra đã mù, còn làm sao nó sáng được thì xin các
ông hỏi nó, nó khôn lớn rồi và có thể nói năng về mình được” (Yn.9,20-21)?
Cha
mẹ nó nói thế vì sợ người biệt phái đuổi họ ra khỏi hội đường (Yn.9,22-23)!
“Kẻ
nào chối Ta trước mặt người đời, thì con người cũng chối nó trước mặt Cha Ta,
kẻ nào tuyên xưng Ta trước mặt người đời thì Con Người cũng tuyên xưng kẻ ấy
trước mặt Cha Ta Đấng ở trên trời” (Mt.10,32-33). Trong cuộc sống thường ngày,
tôi có khôn như cha mẹ người mù không? Tôi có dám nói sự thực dù những bất lợi
có thể xảy tới cho tôi không?
Mới
thoạt nhìn, chúng ta tưởng anh mù là người nhu nhược không có lập trường khi
anh ta để cho đức Yêsu nhổ nước bọt làm bùn xức vào mắt anh ta, và đi rửa mắt
trong ao Siloam! Nhưng thực tế không phải vậy.
Khi
người biệt phái buộc anh ta phải tuyên bố đức Yêsu là người tội lỗi, anh ta đã
tỏ thái độ dứt khoát và thông minh; không những thế, anh ta còn có thể cho những người biệt phái thấy rằng họ sai
lầm (Yn.9,25-34).
Dễ
dạy với Thánh Thần và sẵn sàng làm những gì Thiên Chúa thúc đẩy, sẽ làm một
người trở thành người có lập trường và can đảm trưởng thành. Tôi có luôn ngoan
ngùy với thúc đẩy của Thánh Thần và thực hiện Ý Thiên Chúa trong đời tôi không?
Tâm sự
Hãy
thân thưa với Chúa như mình thấy về chính mình: xin Chúa cho mình nhận biết rõ
mình có những tật mù “thiêng liêng”, và xin Chúa giải phóng mình khỏi những tật
mù này, xin cho mình ơn trở về với Chúa thực sự, để mình được sáng và nhận ra
nét đẹp của Thiên Chúa và của anh em mình.
Khung cảnh
Như
thể mình đang hiện diện với đức Yêsu và người biệt phái trong bữa tiệc, và mục
kích cung cách cư xử của chị phụ nữ.
Ơn xin
Ơn
cảm nhận mình là tội nhân, lòng thống hối mãnh liệt trước Thiên Chúa là Đấng
yêu thương mình vô cùng; ơn khao khát trở về với Chúa thực sự.
Điểm
Nhìn
nghe quan sát cung cách hành xử của chị phụ nữ: khóc lóc nức nở, lấy tóc lau
chân đức Yêsu, hôn chân Ngài.
Tại
sao chị phụ nữ này đã làm như vậy? Hành vi thái độ này diễn tả điều gì trong
tâm hồn chị? Nguyên nhân sâu xa thúc đẩy chị ta hành xử như vậy là gì?
Để
làm được điều này, chị đã phải vượt qua ngưỡng cửa nhà người biệt phái: điều
này đòi chị phải rất can đảm, vì người biệt phái coi chị là người tội lỗi, và
họ không muốn tiếp xúc với người tội lỗi; nếu chị bị chặn lại và đuổi ra thì
sao? Tự ái của mình bị xúc phạm thì sao? Thày Yêsu không thông cảm thì sao? Tại
sao chị không chờ Thày Yêsu ra khỏi nhà người biệt phái đó, rồi chị hãy tỏ lòng
thống hối? Và hơn nữa, thày Yêsu hiểu lòng chị mà, tại sao phải làm vậy? Có bao
nhiêu lý do để ngăn cản chị ta, nhưng tại sao chị ta đã hành xử như chị ta đã
làm, thâm sâu và đáng nói trong hành động này là gì?
Chính
Thiên Chúa đang thúc đẩy nơi tâm hồn của chị, và chị đã làm như mình được thúc
đẩy.
Người
biệt phái không nói thành lời nhưng nói trong lòng ông ta: “Oâng này, nếu qủa
thực là một tiên tri, ắt phải biết người đàn bà rờ đến mình kia là ai và thuộc
hạng nào chứ: một đứa tội lỗi” (Lc.7,39).
Có
lẽ vào địa vị ông, ông sẽ không cho chị phụ nữ được đụng chạm vào người ông, vì
chị ta không đáng, vì chị ta là đứa tội lỗi. Trong câu nói, cho thấy ông ta coi
thường, khinh bỉ chị phụ nữ này; và vì đức Yêsu đối xử với chị phụ nữ này như
vậy, nên dường như ông ta không còn coi đức Yêsu là một tiên tri nữa.
Cái
nhìn lệch lạc về con người, ngay cả đối với người “tội lỗi”, cũng ngăn cản
người ta hiểu đúng về đức Yêsu và về Thiên Chúa.
Từ
đầu, đức Yêsu có vẻ không bận tâm về sự xuất hiện của chị phụ nữ, và chúng ta
không thấy Ngài phản ứng sao trước cách đối xử của chị phụ nữ. Thế nhưng, khi
biết ý nghĩ trong lòng của người biệt phái, đức Yêsu đã bênh vực chị phụ nữ, và
nhờ đó chúng ta thấy Ngài đã lưu ý và không bỏ sót một hành vi cử chỉ nào của
chị phụ nữ thống hối này, và cả những gì sâu kín nơi con người của chị.
Đức
Yêsu đã đón nhận chị, đã chấp nhận con người và cách hành xử cùng tâm tình thái
độ của chị. “Chị yêu nhiều nên được tha nhiều” (Lc.7,47).
Tâm sự
Chị
phụ nữ có thể có nhiều tội hơn tôi, nhưng kể từ giây phút đó, chị đã đổi đời,
không bao giờ chị còn trở lại đường cũ nữa; còn tôi, tôi thiếu tâm tình thống
hối như chị, tôi chưa ý thức được về con người tôi như chính chị đã ý thức về
con người chị, và vì vậy tôi cứ ì ạch như con người hiện tại; xin Chúa ban cho
mình ơn biết rõ mình là con người tội
lỗi, và ơn thống hối thực sự, để từ đây mình không bao giờ làm buồn lòng Chúa
nữa.
Khung cảnh
Như
thấy David mặc áo nhặm ăn chay, thống hối tội lỗi, xin Chúa tha thứ.
Ơn xin
Xin
Chúa cho mình ơn nhận biết mình tội lỗi, và ơn cảm nhận tình Chúa yêu thương,
để mình thống hối thật sự, và khao khát bắt đầu một đời sống mới với Chúa.
Điểm và tâm sự
Đọc
chậm Thánh Vịnh, dừng lại suy nghĩ, và cầu nguyện với Chúa như mình thấy cần.
HOME CHIA SẺ LỜI CHÚA LINH ĐẠO THẦN HỌC ĐỜI SỐNG SOME THEMES IN
ENGLISH
HIỆN
TẠI MỚI QUAN TRỌNG BẠN ĐƯỜNG LINH THAO
ĐỂ TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC HƠN
LINH
THAO MƯỜI NGÀY LINH THAO TRONG CUỘC SỐNG ĐẶC SỦNG DÒNG TÊN SÁCH LINH THAO
CỦA THÁNH YNHÃ
Chúc bạn an vui hạnh phúc.
phamthanhliem
[1] Nếu tôi là một tu sĩ, thì tôi đã tìm kiếm điều gì
trước khi tôi đi tu?
khi tôi mới bắt đầu đi tu?
sau khi tôi đi tu một thời gian?
[2] Hỏa ngục ở đây muốn chỉ tình trạng đau khổ bất hạnh hơn là một cái ngục đầy lửa, vì thiên thần thì thiêng liêng; và nếu muốn hiểu hỏa ngục là một ngục đầy lửa, thì cũng phải hiểu hỏa ngục “thiêng liêng” trong trường hợp dành cho ma qủy này.
[3] Nếu không là tu sĩ, thì bỏ bài này.