HOME CHIA SẺ LỜI CHÚA LINH ĐẠO THẦN HỌC ĐỜI SỐNG SOME THEMES IN ENGLISH
HIỆN TẠI MỚI QUAN TRỌNG BẠN ĐƯỜNG LINH THAO ĐỂ TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC HƠN
LINH THAO MƯỜI NGÀY LINH THAO TRONG CUỘC SỐNG ĐẶC SỦNG DÒNG TÊN SÁCH LINH THAO CỦA THÁNH
YNHÃ
LINH THAO MƯỜI NGÀY
NHỮNG ĐIỂM GỢI
Ý GIÚP CẦU NGUYỆN
Jptl
53. Giáng
Sinh và Dâng Chúa Yêsu (Lc.2,1-40)
54. Đức
Yêsu ở lại đền thờ (Lc.2,41tt)
62. Thanh
Tẩy Và Bị Cám Dỗ (Mt.3,13-4,11)
71. Tôi
phải làm gì (Mc.10,17-31)
73. Đức
Yêsu luôn thực hiện Ý Cha
74. Ba mức
độ yêu thương (LT.165-167)
Khung cảnh
Cùng
với dân chúng theo đức Yêsu ra bờ hồ để nghe Ngài rao giảng.
Ơn xin
Xin
ơn đừng giả điếc làm ngơ trước lời mời gọi của Chúa, nhưng mau mắn lắng nghe và
đáp trả tiếng Ngài.
Điểm
Cách
cầu nguyện bây giờ là chiêm niệm, nghĩa là, chúng ta nhìn rồi suy nghĩ rút ích
lợi, nghe rồi suy nghĩ rút ích lợi, quan sát rồi suy nghĩ rút ích lợi.
Nhìn
nghe quan sát đức Yêsu để rút ích lợi.
Simon
đã nhận lời để đức Yêsu lên thuyền của mình, và giữ thuyền cho đức Yêsu giảng
dạy. Không chỉ thế, Simon còn chăm chú lắng nghe đức Yêsu.
Sau
khi nghe giảng dạy, Simon đã vâng lời đức Yêsu ra khơi buông lưới, dù với kinh
nghiệm con người, làm sao đức Yêsu có chuyên môn về chài lưới bằng Simon!
Tất
cả những điều đó cho thấy thái độ của Simon lúc này đang mở ra với Thiên Chúa
và với con người, cụ thể là với đức Yêsu.
Mẻ
cá bất ngờ và vượt tất cả mọi kinh nghiệm trong đời của mình. Và không phải chỉ
được một ơn vật chất là mẻ cá lớn, Simon còn nhận được một ơn lớn hơn nhiều:
nhận ra mình là tội nhân và không xứng đáng ở gần đức Yêsu: “Lạy Thày, xin xa
tôi ra, vì tôi là kẻ tội lỗi” (Lc.5,).
Và
khi Simon khiêm tốn phủ phục dưới chân đức Yêsu, thì ông còn nhận được một ơn
khác nữa: đức Yêsu mời gọi ông cộng tác với Ngài: “từ nay ngươi sẽ là kẻ chài
lưới bắt người” (Lc.5,10).
Không
phải vì tốt hơn người khác mà Simon được gọi, nhưng chính khi ý thức mình là
tội nhân và bất xứng với Thiên Chúa thì Simon được gọi.
Trước
lời mời của đức Yêsu đối với Simon và các bạn, họ đã bỏ tất cả để theo đức Yêsu
không một chút luyến tiếc.
Không
bận tâm giải quyết hai thuyền đầy cá, dù rằng trước đó không lâu họ đã bận tâm
nhiều để làm sao có được nhiều cá; sẵn sàng từ bỏ thuyền, chài và lưới, nghề
nghiệp và thói quen; sẵn sàng từ bỏ cha
mẹ anh chị em và cả vợ con để theo đức Yêsu.
Tôi
có thái độ sẵn sàng như các tông đồ tiên khởi này không? Phải chăng lúc đầu tôi
cũng đã quảng đại sẵn sàng từ bỏ tất cả, nhưng còn những năm tháng sau đó và
bây giờ? Hay tôi đã lấy lại tất cả điều tôi đã từ bỏ trong những năm tháng vừa
qua?
Hôm
nay và bây giờ, Chúa mời gọi gì nơi tôi? Phải chăng Chúa vẫn tiếp tục mời gọi
tôi từ bỏ tất cả để đi theo Chúa, và từ bỏ cả những gì tôi đã lấy lại trên
đường theo Chúa, như ngày nào thuở ban đầu Chúa đã mời gọi tôi?
Tâm sự
Hãy
thân thưa với Chúa như tôi thấy về hiện trạng của tôi. Xin cho tôi được quảng
đại với Ngài không chỉ như mà còn hơn ngày đầu mới theo Ngài.
Làm
sao để có tâm tình thái độ của lời nguyện xin trong LT.97-98, lời nguyện của
những kẻ muốn trổi trang trong việc phụng sự Thiên Chúa.
Khung cảnh
Như
thể mình hiện diện và thấy đức Yêsu chiến đấu đổ mồ hôi máu trong vườn dầu.
Ơn xin
Quảng
đại đáp trả lời mời gọi của Chúa: nên thánh, thuộc trọn về Chúa, bằng vượt lên
trên những khuynh chiều của thân xác mình, bằng đời sống yêu thương.
Điểm
“Hãy
là thánh vì Ta là thánh, Ta, Yavê Thiên Chúa của các ngươi” (Lv.19,2). Thiên
Chúa đã truyền lệnh nhân danh chính Ngài, vì chính Ngài chứ không vì bất cứ
điều gì khác; điều này cho thấy mức độ quan trọng của lệnh truyền.
Thánh,
nghĩa là sao?
Chỉ
có Thiên Chúa là Đấng Thánh, là Đấng ba lần thánh: “Thánh, chí thánh, ngàn
trùng chí thánh”, ngoài Thiên Chúa không ai là thánh cả.
Ở
một nghĩa loại suy, các tạo vật được gọi là thánh vì được dành cho Thiên Chúa,
chẳng hạn: bàn thánh, đĩa thánh, khăn thánh,...; và nơi con người, một người
được gọi là thánh vì người đó thuộc về Thiên Chúa.
Với
những sách tu đức xưa, người ta thường trình bày các thánh nhân như những người
làm phép lạ, như những người khi cầu nguyện thường được ngất trí. Trình bày
hình ảnh của một vị thánh như vậy dễ làm cho người ta thấy xa lạ và không ao
ước nên thánh. Đúng ra, thánh nhân là người luôn thuộc về Thiên Chúa, luôn lấy
Ý Thiên Chúa làm ý mình, sẵn sàng từ bỏ mình để thực hiện ý định của Thiên
Chúa. Thánh nhân, là những người sống đời bình thường một cách rất phi thường.
Con
người là tinh thần qua thân xác.
Với
thân xác, con người có những khuynh chiều thuộc thân xác như đói cần ăn khát cần
uống, khuynh chiều thỏa mãn sinh lý, khuynh chiều đòi được tôn trọng và muốn
thống trị người khác,...! Nơi con vật, chúng ta cũng thấy những khuynh chiều
này, nhưng dưới trạng thái thô sơ hơn.
Con
người có khuynh chiều thân xác, nhưng con người tự do, con người có thể không
thỏa mãn những khuynh chiều của thân xác.
Nếu
một người cảm thấy nơi mình có khuynh chiều thân xác hạ đẳng, thì chẳng có gì
đáng ngạc nhiên và buồn phiền.
Cảm
thấy nơi mình có khuynh chiều hạ đẳng, không có nghĩa rằng mình xấu xa hèn kém.
Chúng ta chỉ hèn kém khi chúng ta chiều theo những khuynh chiều thấp hèn đó,
còn nếu chúng ta chống trả, thì giá trị con người chúng ta càng cao.
Nếu
bị cám dỗ mà chống trả, mình có công phúc trước mặt Thiên Chúa; và nếu càng bị
cám dỗ nhiều mà lại càng chống trả mãnh liệt đến khi nó chịu thua, thì công
phúc của mình lại càng lớn (LT.33-34).
Nên
thánh, là không dừng lại ở bình diện vật chất, nhưng vượt lên trên vật chất để
vươn tới Thiên Chúa.
Qua
những dấu chỉ là các tạo vật hữu hình, con người trở thành “tinh thần” khi nhận
ra Thiên Chúa hiện hữu. Để trở thành tinh thần trong hành vi nhận thức, con
người phải làm một bước nhẩy.
Để
trở thành tinh thần trong đời sống thường ngày, con người được mời gọi vượt qua chính mình với những khuynh
chiều của mình bằng hành vi yêu thương, vì chỉ có con người mới có thể yêu
thương. Yêu thương là làm theo điều lý trí thấy đúng và tốt, cho mình và cho
tha nhân, dù mình phải từ bỏ, phải hy sinh thời giờ và sức lực. Yêu thương là
sống vượt lên trên những khuynh chiều hạ đẳng, vượt lên trên thú tính của mình.
Một
ngày, chúng ta có rất nhiều dịp để nên thánh. Càng bị thử thách và cám dỗ,
chúng ta càng có nhiều dịp để lập công và nên thánh. Thánh Phaolô đã ba lần xin
Chúa cất cái dằm ra khỏi xác thịt ngài, nhưng Thiên Chúa phán : “ơn Ta đủ cho
con” (2Cor.12,8-9).
Khi
bị cám dỗ và thử thách nhiều, đừng chán nản thất vọng, nhưng hãy tin tưởng vào
đức Yêsu. Đức Yêsu đã bị cám dỗ và thử thách trăm chiều (Mt.4,1-11
Mc.14,34;15,34), nhưng Ngài đã chiến thắng để ta cũng được chiến thắng với Ngài
(Yn.16,33).
Tâm sự
Hãy
thân thưa với Chúa như mình thấy con người của mình. Xin cho mình ơn quảng đại
với Chúa, để mình luôn vượt qua chính mình trong mọi giây phút của cuộc sống
thường ngày.
Khung cảnh
Những
nơi và những con đường tại đất nước Do Thái nối từ làng này qua làng kia, những
con đường ven biển, trên đó đức Yêsu đã rong ruổi rao giảng Nước Thiên Chúa.
Ơn xin
Đừng
làm ngơ giả điếc trước lời mời gọi của Chúa, nhưng mau mắn lắng nghe và quảng
đại thực thi Ý Chúa trong từng giây phút của cuộc đời.
Điểm
Sứ
mạng của đức Yêsu, của Ngôi Lời nhập thể là gì?
Sứ
mạng của Ngôi Lời Nhập Thể là chuộc tội, là cứu độ, là giải phóng con người
khỏi nô lệ tạo vật (dù là qủy dữ hay đam mê của xác thịt mình). Câu trả lời này
hoàn toàn đúng, nhưng người ta cũng có thể nói: sứ mạng của Ngôi Lời Nhập Thể
là làm chứng cho tình yêu.
Làm
sao để con người biết Thiên Chúa yêu thương họ, và rung động trước tình yêu của
Thiên Chúa, để rồi họ đáp trả.
Tội
là không tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, là tin vào qủy dữ hơn tin vào
Thiên Chúa, là không trông cậy vào Thiên Chúa nữa. Nhưng nếu con người rung
động trước tình yêu Thiên Chúa, và sẵn sàng phó thác đời sống mình cho Thiên
Chúa để tùy Thiên Chúa muốn làm gì tùy Ngài, thì con người sẽ bình an và hạnh
phúc thực sự.
Làm
sao để con người tin nhận và đáp trả tình yêu của Thiên Chúa đối với mình, đó
là sứ mạng của Ngôi Lời Nhập Thể, của đức Yêsu.
Ngôi
Lời Thiên Chúa đã nhập thể làm người để thực hiện sứ mạng Cha trao phó.
Nhập
thể, thành xác phàm, nghĩa là phải đói phải khát, có thể bị xỉ nhục khinh chê,
và có thể bị giết. Ngôi Lời Thiên Chúa đã chấp nhận cái cùng cực của kiếp người
để thực hiện sứ mạng được trao phó:
·
chấp nhận nhập thể và ở
trong cung lòng một người nữ (Gl.4,4-6);
·
chấp nhận mình có một
người cha người mẹ ở giai cấp thường dân như mọi người khác;
·
sinh ra trong chuồng
súc vật;
·
sống như một người
nghèo và bình thường ở Nadarét;
·
hành nghề thợ mộc, một
nghề thường như bao nghề khác;
·
đi rao giảng trong khó
nghèo (Lc.21,37);
·
chết ô nhục và đau đớn
trên thập giá.
Đức
Yêsu đã yêu thương con người đến chết vì con người (Yn.15,13), đến ban thịt máu
Ngài làm của ăn của uống cho con người (Mc.14,22-25). Đức Yêsu đã làm mọi sự để
con người nhận biết Ngài yêu mến họ và Thiên Chúa cũng yêu mến họ. Ngài mong
ước con người đáp trả tình yêu của Ngài và cũng là tình yêu của Thiên Chúa
(Yn.15,9;17,23).
Đức
Yêsu đã mặc khải cho con người biết Ngài là Thiên Chúa dù vì mặc khải đó Ngài
phải chết. Sở dĩ Ngài phải làm vậy, vì nếu con người biết Ngài là Thiên Chúa,
thì con người cũng biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Để con người
biết Thiên Chúa yêu thương họ, đức Yêsu đã phải chết. Ngài chết để làm chứng
cho tình yêu.
“Như
Cha đã sai Thày, Thày cũng sai anh em” (Yn.20,21).
Cùng
một sứ mạng Thiên Chúa Cha đã trao cho đức Yêsu, đức Yêsu cũng trao cho các
tông đồ và qua các tông đồ Ngài trao cho chúng ta; cùng một cách thế đức Yêsu
thực hiện sứ mạng, thì chúng ta cũng thực hiện sứ mạng đó.
Làm
sao chúng ta có thể làm cho người ta nhận biết Thiên Chúa yêu thương họ, nếu
chính chúng ta không hoặc chưa cảm được tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta?
Làm
sao chúng ta có thể làm cho con người tin và cảm nghiệm Thiên Chúa yêu thương
họ, nếu chính chúng ta không yêu thương họ?
Con
đường diễn tả tình yêu, là con đường thập giá. Chính khi mình phải gian nan để
yêu thương người ta, người ta mới dễ nhận ra tình yêu của mình đối với họ; và
khi họ nhận ra mình yêu thương họ, họ dễ tin vào lời mình nói với họ hơn, và họ
dễ tin rằng Thiên Chúa yêu thương họ hơn.
Tâm sự
Xin
Chúa cho mình xác tín và cảm nghiệm Thiên Chúa yêu thương mình, để mình có thể
trở thành chứng nhân tình yêu của Thiên Chúa cho con người ngày hôm nay.
Khung cảnh
Căn
nhà đức Maria sống với thân phụ thân mẫu tại làng Nadarét.
Ơn xin
Hiểu
biết thâm sâu về Ngôi Lời Nhập Thể hơn, để yêu mến Ngài hơn và theo Ngài.
Điểm
Nhìn
nghe quan sát, suy nghĩ và rút ích lợi.
Nhìn
nghe quan sát con người trên khắp thế giới đang sống trong tình trạng tội lỗi,
không vâng phục Thiên Chúa qua lương tâm và luôn thù ghét làm hại nhau.
Sống
trong tội, con người đặt lợi danh quyền hành của họ lên hàng đầu, và những sự
khác, ngay cả “nhân vị con người” cũng chỉ là phương tiện để phục vụ cho con
người ích kỷ với những tham vọng của họ.
Con
người phạm tội, luôn sống trong tình trạng bất hạnh. Họ sống không bình an, và
những người sống với họ cũng luôn cảm thấy bị đe dọa; vì không gì bảo đảm họ sẽ
không làm hại những người này.
Thiên
Chúa từ thuở đời đời, thấy rõ con người bất hạnh và khốn cùng khi từ chối Thiên
Chúa và tình yêu của Ngài.
Thiên
Chúa muốn cứu độ con người, Ngài đã quyết định từ thuở đời đời rằng Ngôi Lời sẽ
nhập thể để cứu độ con người.
Không
phải khi Adam và Evà phạm tội, Thiên Chúa mới biết và mới quyết định rằng Ngôi
Lời sẽ nhập thể, nhưng Thiên Chúa đã biết từ thuở đời rằng con người sẽ phản
bội chống đối Ngài.
Tuy
Thiên Chúa biết trước con người sẽ phạm tội như vậy, nhưng không vì thế mà con
người mất tự do: con người vẫn luôn được tự do, cũng tương tự như trường hợp
hai người bạn thân biết “trước phần nào” cung cách cư xử của nhau và như người
mẹ biết “trước phần nào” cung cách cư xử và phản ứng của con mình.
Với
kiểu nói nhân hình, Thiên Chúa biết con người sẽ phạm tội nhưng Thiên Chúa
không hề muốn con người phạm tội; Sở dĩ như vậy vì Thiên Chúa ban cho con người
tự do: Thiên Chúa ban cho con người khả năng làm trái ý Thiên Chúa nếu con
người muốn; Và khi con người làm trái ý Thiên Chúa: đó là tội.
Khi
tới thời tới buổi (Gl.4,4-6), Thiên Chúa đã sai sứ thần Gabriel đến truyền tin
cho đức Maria, hỏi xem đức Maria có sẵn sàng vâng phục ý định Thiên Chúa: thụ
thai một con người rất đặc biệt không?
Đức
Maria đã thưa tiếng “xin vâng” với Thiên Chúa về chương trình của Ngài nhằm cứu
độ con người.
Để
có thể thưa tiếng xin vâng, đức Maria đã đặt
·
tình yêu Thiên Chúa
trên tình yêu riêng (đối với thánh Yuse);
·
ý định Thiên Chúa trên
danh dự gia đình;
·
niềm tin vào Thiên Chúa
hơn là chính con người của mình.
Đức
Maria đã đính hôn với Yuse trước khi thiên thần truyền tin (Lc.1,27), hàm chứa
đức Maria đã thân quen và yêu thánh Yuse trước. Đứng trước lời mời gọi của
Thiên Chúa, đức Maria đã chọn Thiên Chúa trên hết, đã sẵn sàng hy sinh tình yêu
riêng để làm theo ý định của Thiên Chúa. Nếu Yuse không hiểu và không thông
cảm, thì đức Maria cũng sẵn sàng chịu, ý Thiên Chúa được coi là trên hết đối
với đức Maria.
Nếu
Yuse không chịu hiểu, và nếu chuyện tai tiếng xảy tới cho gia đình, làm sao
thánh Yoan-Kim và thánh Anna có thể chịu đựng được điều như vậy? Đức Maria chấp
nhận tất cả điều tệ hại nhất có thể xảy ra cho gia đình cha mẹ và họ hàng, ý
định của Thiên Chúa phải được coi là trên hết.
Nếu
Yuse không hiểu và không thông cảm, nếu Yuse tố cáo công khai thì sao, Maria có
thể bị ném đá chết như một phụ nữ phạm tội ngoại tình! Nếu chuyện xảy ra như
vậy, thì việc nhận lời thụ thai nào có ích lợi gì? Không, đức Maria vẫn hoàn
toàn tin tưởng và phó thác tất cả cho Thiên Chúa. Thiên Chúa quyền năng, Ngài
có thể làm tất cả những gì, và Ngài có thể làm cho thành sự những gì Ngài đã
khởi đầu. Chỉ khi phó thác như vậy, đức Maria mới có thể thưa tiếng xin vâng
đối với Thiên Chúa.
Đức
Maria đã thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa, dù Mẹ chưa thấy rõ hoàn toàn tương
lai của mình. Chưa thấy rõ, nhưng Mẹ vẫn tin tưởng phó thác tất cả cho Thiên Chúa: “Phúc cho em là kẻ đaõ tin rằng Lời Chúa phán cùng
em sẽ được thực hiện”
(Lc.1,45). Lúc này, những gì Thiên Chúa nói với Mẹ chưa được thực hiện, nhưng
Mẹ tin chúng sẽ được thực hiện. Đức tin của Mẹ thật tuyệt vời.
Kể
từ khi đức Maria thưa tiếng “xin vâng”, Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể trong
cung lòng đức Maria.
Chúng
ta hãy nhìn nghe quan sát, suy nghĩ và rút ích lợi.
Tâm sự
Thân
thưa với Thiên Chúa Cha, với Ngôi Lời Nhập Thể, như chúng ta thấy nơi lòng
mình. Xin cho mình biết tự hủy trong sứ mạng làm chứng cho tình yêu như Ngôi
Lời.
Khung cảnh
Con
đường từ Nadarét tới Yêrusalem và Bêlem, chuồng chiên cừu, đền thờ. Như thể
mình đang hiện diện trong chuồng chiên cừu để chiêm ngắm Ngôi Lời Nhập Thể
giáng sinh.
Ơn xin
Ơn
hiểu biết thâm sâu về Ngôi Lời Nhập Thể hơn, để yêu Chúa hơn và theo Ngài hơn.
Điểm
Nhìn
nghe quan sát, cố hiểu phản ứng và tâm tình của từng vị, suy nghĩ và rút ích
lợi:
·
đức Maria và thánh Yuse
trên đường từ Nadarét tới Bêlem; lúc này thai nhi đã hơn chín tháng nên đức
Maria rất vất vả;
·
thánh Yuse vất vả ngược
xuôi tìm nhà trú đêm cho đức Maria;
·
đức Maria sinh con
trong chuồng chiên cừu;
·
hài nhi được sinh hạ là
Ngôi Lời Nhập Thể.
Thiên
thần Chúa đã hiện ra báo tin cho các mục đồng.
Dấu
chỉ để nhận biết “Đấng Cứu Thế Chúa được giáng sinh cho các ngươi trong thành
Davit”, là hài nhi mình vấn tã được đặt nằm trong máng cỏ.
Dấu
chỉ quá tầm thường, tầm thường đến độ không ai có thể ngờ. Dân ở Bêlem không
thể nhận ra hai vợ chồng trẻ nghèo xin ngủ nhờ qua đêm lại là những người
“mang” Thiên Chúa đến với họ, nên họ đã không tiếp nhận, và không được diễm
phúc nhận biết Ngôi Lời Nhập Thể; còn những mục đồng đã tin dù dấu chỉ rất đơn
sơ và tầm thường, nên đã được diện kiến Ngôi Lời Nhập Thể.
Hãy
nhìn nghe quan sát, suy nghĩ rút ích lợi.
Hài
nhi được cắt bì và đặt tên. Cắt bì là nghi thức tôn giáo, cắt da quy đầu của em
bé trai.
Hài
nhi cảm thấy đau đớn, dẫy dụa và khóc thét trong nghi lễ này. Hãy nhìn nghe
quan sát mầu nhiệm, suy nghĩ và rút ích lợi.
Ngôi
Lời Nhập Thể nên giống chúng ta, là “người” hoàn toàn, trừ tội (Dt.2,17;4,15).
Đức
Yêsu được dâng cho Thiên Chúa trong đền thờ. Đức Maria được tẩy uế theo luật.
Đức
Yêsu là Thiên Chúa, luôn hướng về Cha (Yn.1,1), vậy tại sao phải “dâng” trong
đền thờ? Đức Maria sinh hạ Thiên Chúa Nhập Thể, đâu có “dơ” để mà phải tẩy uế?
Đức
Maria và thánh Yuse đã đại diện con người, xin Thiên Chúa Cha cho Chúa Yêsu,
Ngôi Lời Nhập Thể, được ở lại với con người.
Đức
Maria vẫn không hiểu lời hai tiên tri Simêon và Anna; Mẹ suy nghĩ và giữ kỹ
trong lòng.
Mẹ
Maria cũng luôn đi tìm thánh ý Thiên Chúa trong đức tin.
Nhìn
nghe quan sát, suy nghĩ và rút ích lợi.
Đức
Yêsu đã sống thời thơ ấu tại Nadarét như bao em bé khác. Ngài cũng được bú mớm,
được ấp yêu cưng chiều, tập lẫy tập bò tập đi, học nói học viết học làm việc.
Cũng chơi, và lớn lên với chúng bạn và nhờ chúng bạn.
Nhìn
nghe quan sát, suy nghĩ và rút ích lợi:
·
đức Yêsu ở sáu tháng
tuổi;
·
ở ba năm tuổi;
·
ở sáu năm tuổi;
·
ở tám, mười, và mười
một năm tuổi.
Cách
thức người thời đó đối xử với đức Yêsu, là cách đối xử của họ với Thiên Chúa
Nhập Thể. Cách thức hôm nay tôi đối xử với các em thơ bé, có thể là cách thức
tôi đối xử với đức Yêsu.
Tâm sự
Nói
chuyện thân thưa với Chúa Cha, với Ngôi Lời Nhập Thể, và với Thánh Thần Thiên
Chúa, như chúng ta thấy nơi lòng; cũng có thể tâm sự với Mẹ và với thánh Yuse
nữa.
Khung cảnh
Con
đường từ Nadarét tới Yêrusalem, đền thờ và nơi đức Yêsu ngồi với các thày dạy
tại Yêrusalem.
Ơn xin
Ơn
hiểu biết thâm sâu về Chúa, để yêu mến Chúa hơn và theo Ngài. Hiểu tại sao Ngài
ở lại đền thờ mà không báo cho mẹ Ngài hay, để mẹ Ngài phải cực khổ tìm Ngài
như vậy!
Điểm
Nhìn
nghe quan sát, suy nghĩ và rút ích lợi:
·
Đức Maria, thánh Yuse
và đức Yêsu trước ngày đi lên Yêrusalem dự lễ Vượt Qua;
·
Dân làng Nadarét tập
trung đi với nhau lên Yêrusalem, họ đi thành từng nhóm[1] với nhau,
và có thể đàn ông riêng, đàn bà riêng, và trẻ em riêng;
·
Đức Yêsu ở lại
Yêrusalem mà cha mẹ Ngài không hay biết.
Đức
Yêsu ở lại Yêrusalem, vì có lẽ Ngài được thúc đẩy đến độ quên không báo hoặc
không còn giờ hoặc dịp để báo cho mẹ hoặc cha Ngài.
Đức
Yêsu luôn đặt Thiên Chúa, ý định cũng như công việc của Thiên Chúa lên trên tất
cả. Đó là điều chúng ta phải học đức Yêsu trong biến cố Ngài ở lại Yêrusalem
này.
Kể
từ biến cố đó trở đi, đức Yêsu hằng luôn tùng phục hai ông bà (Lc.2,51-52).
Đức
Yêsu đã sống những năm tháng dài ở Nadarét, như một em bé đồng trang lứa tuổi
bất kỳ nào đó. Ngài đã sống những năm 13 tuổi, 14 tuổi, 15, 16, 17, 18, 19, 20
tuổi, 21, 21, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 30 tuổi; Những tháng năm dài, mà chỉ
kể số năm thôi chúng ta đã thấy lâu và không đủ kiên nhẫn rồi, huống hồ là
sống!
Xem
cách đức Yêsu đối xử với những người tới đặt đức Yêsu làm việc; xem cách Ngài
đối xử với bạn trai bạn gái; xem cách Ngài đối xử với kẻ dưới người trên. Để
mỗi người chúng ta được nên giống Ngài hơn.
Cuộc
đời đức Yêsu có giá trị và ý nghĩa sâu xa. Hãy nhìn nghe quan sát, suy nghĩ và
rút ích lợi.
Tâm sự
Thân
thưa với Chúa Yêsu như thể Ngài đang trong đời sống ẩn dật tại Nadarét, xin
Ngài dạy chúng ta cách sống và đối xử với người khác như Ngài.
Khung cảnh
Nơi
hài nhi được sinh ra; và căn nhà, nơi đức Yêsu sống với đức Maria và thánh Yuse
tại Nadarét. Cũng nhìn nơi đức Yêsu đã ở khi Ngài lưu lại tại Yêrusalem. “Xưởng
mộc” của đức Yêsu.
Ơn xin
Xin
hiểu thâm sâu về Chúa, Đấng đã làm người vì tôi, để yêu Ngài hơn và theo Ngài.
Điểm
Dừng
lại ở những chỗ đã được đánh động hoặc an ủi; cũng dừng lại những chỗ mình đã
bị sầu khổ hoặc mình muốn trốn tránh.
Tâm sự với Chúa
như mình thấy.
Khung cảnh
Chỗ
đức Yêsu được thanh tẩy và nơi đức Yêsu ăn chay cầu nguyện và bị cám dỗ; có lẽ
dưới một vòm cây hay trong một hốc đá nào đó.
Ơn xin
Xin
hiểu Chúa hơn để yêu Chúa và theo Chúa hơn.
Điểm
Đức
Yêsu vô tội, vậy tại sao Ngài phải chịu thanh tẩy? Đức Yêsu là Thiên Chúa Nhập
Thể, vậy tại sao Ngài lại bị cám dỗ?
Nhìn
nghe quan sát, suy nghĩ và rút ích lợi:
·
đức Yêsu chào Mẹ để lên
đường đi Yêrusalem;
·
đức Yêsu trên đường tới
nơi Yoan rao giảng;
·
đức Yêsu trước khi được
thanh tẩy và sau khi được thanh tẩy.
Khiêm
tốn không là giả bộ, cũng không là làm điều gì trái sự thực với mục đích chỉ để
làm gương. Ai sống theo sự thật mới có thể làm gương sáng thực sự. Đức Yêsu đã
không chịu thanh tẩy chỉ nhằm để làm gương, nếu thực sự Ngài không thấy Ngài
cần phải được thanh tẩy.
Đức
Yêsu ý thức Ngài “gánh tội trần gian” như Yoan Tẩy Giả làm chứng (Yn.1,29).
Chính vì gánh tội của con người, nên đức Yêsu thấy Ngài cần được thanh tẩy, và
Ngài đã chịu thanh tẩy.
Thiên
Chúa đã chứng thực cho hành vi khiêm tốn của Ngài bằng tiếng phán từ trời và
Thánh Thần như chim câu đáp xuống trên Ngài.
Thần
Khí Thiên Chúa dẫn Ngài vào hoang địa để chịu ma qủy cám dỗ (Mt.4,1).
i. Biến đá thành bánh
Đức
Yêsu cảm thấy đói, và ma qủy gợi ý cách thỏa mãn nhu cầu bằng cách biến đá
thành bánh.
Đức
Yêsu đã từ chối! Tại sao?
Tự
bản chất ma qủy không muốn điều gì tốt lành cho con người; điều mà ma qủy gợi ý
đó, chắc chắn không tốt thực cho tôi.
Một
điều còn quan trọng hơn việc ăn uống đối với con người, đó là lắng nghe Lời
Chúa. Người đời thường cho rằng “có thực mới vực được đạo”, nhưng con người còn
nhu cầu tinh thần, và nhu cầu này còn quan trọng và khẩn thiết hơn cả nhu cầu
về cơm ăn áo mặc.
Ngày
nay, những cám dỗ thuộc loại này còn xuất hiện trong đời của tôi không? và
thường dưới dạng thức nào?
ii. Nhảy xuống từ đỉnh đền thờ
Nếu
đức Yêsu nhảy từ đỉnh đền thờ xuống, chắc chắn có nhiều người kính phục Ngài;
và nếu sau đó Ngài giảng dạy dân chúng, thì chắc có nhiều người nghe lời Ngài.
Vậy tại sao Ngài không làm?
Điều
ma qủy muốn, chắc chắn không tốt thực cho tôi.
Cách
thế của Thiên Chúa là chinh phục con người bằng tình yêu; Ngài luôn để con
người tự do hoàn toàn ; Ngài không dùng bất cứ một áp lực nào, dù áp lực đó
không phải là vũ lực. Sự thật và tình yêu, đó là những nét đặc trưng của cách
thế Thiên Chúa dùng.
Ngày
nay, cám dỗ ham danh vọng và mong muốn trổi trang được ngụy trang dưới hình
thức nào và chiêu bài nào đối với tôi?
iii. Quyền trên tất cả nếu bái lạy ma qủy
“Tôi
sẽ cho Ngài tất cả nếu Ngài phục mình bái lạy tôi” (Mt.4,9). Cám dỗ có quyền
hành trên kẻ khác, muốn làm chủ người khác bằng vũ lực, vẫn là cám dỗ mãnh liệt
đối với con người ngày hôm nay. Đức Yêsu cũng không được miễn trừ khỏi cám dỗ
này.
“Chỉ
phải thờ lạy một Thiên Chúa mà thôi”. Không được chọn lựa hay đánh đổi điều gì
với Thiên Chúa cả. Chỉ có Thiên Chúa có quyền trên con người, còn chúng ta,
chúng ta phải tôn trọng con người, tôn trọng Thiên Chúa. Chúng ta không được
điều khiển Thiên Chúa theo ý mình, nhưng ngược lại, chúng ta phải thuận theo ý
muốn của Thiên Chúa.
Ngày
này, cám dỗ về quyền hành được thấy qua những hình thức nào?
Đức
Yêsu đã chiến thắng ma qủy, Ngài đã không sa chước cám dỗ. Theo niềm tin kitô
giáo, đức Maria cũng không vương tội nguyên tổ và tội riêng. Như vậy, bản chất
con người đâu có hàm chứa: “con người không thể tránh phạm tội”.
Con
người có thể không phạm tội; nhưng thực tế không ai lại không phạm tội[2]. “Hãy tỉnh
thức và cầu nguyện kẻo sa cơn thử thách, tâm thần tuy sẵn sàng nhưng xác thịt
thì yếu nhược” (Mc.14,38). Nếu chúng ta cậy dựa vào sức riêng của chúng ta,
chắc chắn chúng ta sẽ sa ngã; nhưng nếu chúng ta cậy dựa vào Thiên Chúa và vào
đức Yêsu, chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng ma qủy và con người hạ đẳng của
mình, bởi vì Chúa đã phán: “Anh em hãy tin tưởng, Thày đã thắng thế gian”
(Yn.16,33).
Tâm sự
Nói
chuyện thân thưa với Chúa Yêsu, Đấng đã bị cám dỗ khủng khiếp, không chỉ nơi
hoang địa như chúng ta thấy trong bài cầu nguyện vừa qua, mà còn trong suốt đời
đức Yêsu, thậm chí ngay ở giây phút cuối đời Ngài, và ngay cả về đức tin đối
với Thiên Chúa. Hãy xin Chúa cho mình lòng quảng đại, để mình có thể vượt qua
cám dỗ trong mỗi ngày sống và trong suốt đời mình.
Khung cảnh
Đức
Yêsu lên một ngọn đồi[3], các môn đệ
và dân chúng theo Ngài. Ngài ngồi xuống, các môn đệ ngồi xung quanh, và dân
chúng bao quanh các vị. Như thể mình đang hiện diện ở đó để nghe đức Yêsu rao
giảng.
Ơn xin
Xin
cho mình hiểu biết thâm sâu về Chúa, để mình yêu Chúa hơn, và theo Ngài hơn.
Xin cho mình thấy rõ Chúa sống điều Chúa dạy như thế nào, để mình nên đồng hình
đồng dạng với Ngài.
Điểm
Trong
mỗi điểm của bài cầu nguyện này, chúng ta tuần tự làm theo bốn bước nhỏ:
·
Ý nghĩa của từng mối
phúc;
·
Đức Yêsu đã sống mối
phúc đó thế nào?
·
Tôi đã sống mối phúc đó
thế nào?
·
Tâm sự với Chúa như tôi
thấy, để nên giống Chúa hơn.
Ý nghĩa của mối phúc
Ngày
xưa người ta cũng đã biết hối lộ. Người giầu thời các tiên tri đã biết dùng
tiền để mua chuộc quan tòa, để các quan toà xử cho họ được thắng kiện.
Những
người nghèo là những người không có tiền của để đút lót cho quan tòa, họ không
thể bám víu vào của cải mà cũng không thể trông cậy gì nơi con người, vì các
quan toà đã nhận tiền của người giầu, họ chỉ có thể và chỉ biết bám víu vào
Thiên Chúa mà thôi.
Những
người nghèo được chúc phúc là những người không trông cậy gì nơi tạo vật, nhưng
chỉ biết trông cậy và bám víu vào Thiên Chúa mà thôi.
Cũng
có những người giầu, nhưng họ không bám víu vào của cải, họ chỉ bám víu vào
Thiên Chúa, thì những người này cũng được coi là những người có tinh thần nghèo
khó, và họ cũng là những người được chúc phúc. Nhưng cũng có những người nghèo
tiền của, nhưng họ cho rằng với tiền của, con người có thể làm mọi chuyện;
những người này không có “tinh thần nghèo khó” vì họ đặt trông cậy nơi tiền
của.
Đức Yêsu đã sống mối phúc này thế nào?
Ngôi
Lời Thiên Chúa đã nhập thể làm người, đã chọn cho mình một người cha một người
mẹ nghèo, đã được sinh ra nghèo hèn trong chuồng chiên cừu, đã sống ở Nadarét
như những người nghèo nhất, đã làm nghề của những người nghèo (thợ mộc).
Đức
Yêsu đã đi rao giảng trong sự khó nghèo và dạy các tông đồ sống như Ngài
(Mt.10,10); đức Yêsu thường ngủ ngoài trời (Lc.21,37); chết trần trụi trên thập
giá; chôn nhờ huyệt của người ta (Mt.27,60).
Tôi đã sống mối phúc này thế nào?
Tôi
đã sống mối phúc nghèo này thế nào, ở quá khứ và trong hiện tại?
Hiện
tại, tôi có tin thực rằng nghèo là một mối phúc? Tôi có ao ước sống nghèo, được
trở nên nghèo?
Nếu
tôi không tin nghèo là phúc thật, nếu tôi không ao ước trở nên nghèo, thì:
·
phải chăng tôi đã không
tin rằng lời nói của đức Yêsu là chân lý?
·
phải chăng tôi đã tin
tôi hơn tin đức Yêsu?
·
đức Yêsu có thực sự là
lý tưởng của tôi, Ngài có thực sự là Thiên Chúa đối với tôi?
Có
thể ngoài môi miệng tôi nói rằng tôi tin đức Yêsu, tôi tin những lời Ngài nói
là chân lý; nhưng trong thực tế, trong chọn lựa thường ngày của tôi, tôi đã
không coi nghèo khó là một mối phúc lành!
Tâm sự với Chúa
Thân
thưa với Chúa như mình thấy về chính mình với những khiếm khuyết đã chưa tin
yêu Chúa thực sự.
Ý nghĩa của mối phúc
“Phúc
cho những kẻ bị bắt bớ vì sự công chính, ...;phúc cho các ngươi khi người ta xỉ
nhục các ngươi, bắt bớ, đặt điều nói xấu các ngươi” (Mt.5,10-11).
Đức Yêsu đã sống mối phúc này thế nào?
Ngay
từ nhỏ, đức Yêsu đã bị Hêrôđê coi như người muốn tranh dành ngôi vua
(Mt.2,1-18); Khi đi rao giảng, đức Yêsu đã bị những người thân quen coi như
người mất trí (Mc.3,21), người ta coi Ngài như một người dối trá (Yn.8,57.59),
như một người tội lỗi (Yn.9,24), như một người phạm thượng đáng chết (Mc.2,7
Yn.10,33 Mc.14,64).
Đức
Yêsu đã bị đóng đinh thập giá, chết trần truồng ô nhục, chết giữa những người
tội lỗi, giữa những người đáng bị nguyền rủa.
Tại
sao đức Yêsu đã bị truy lùng, bắt bớ như vậy? Hãy nhìn nghe quan sát đức Yêsu
để nên giống Ngài hơn.
Tôi đã sống mối phúc này thế nào
Tại
sao bị bắt bớ và xỉ nhục lại là mối phúc cho chúng ta? Phải chăng trong cuộc sống thường ngày, tôi thường lẩn trốn
mối phúc này, tôi thường coi đó là mối họa hơn là mối phúc?
Nếu
tôi không coi đây là mối phúc, thì e rằng tôi chưa tin đức Yêsu và chưa trân
trọng Lời Ngài!
Thập
giá là con đường dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa. Thập giá giúp chúng ta nhận
biết con người thực của mình, giúp chúng ta cậy dựa và phó thác vào Thiên Chúa.
Tâm sự với Chúa
Xin
Chúa giúp mình coi xỉ nhục khinh chê là mối phúc thật, và xin cho mình ao ước
mối phúc này. Xin cho mình có cùng cảm nghĩ với Chúa, và được trở nên đồng hình
đồng dạng với Ngài.
Nếu
thời giờ cho phép, chúng ta có thể cầu nguyện với từng mối phúc theo cách thức
đã chỉ ở trên. Mỗi mối phúc có thể là một điểm cầu nguyện.
Tâm sự
Thân
thưa với Chúa và xin Ngài cho chúng ta những gì chúng ta còn thiếu sót. Xin cho
chúng ta yêu Chúa và ao ước nên giống Ngài. Có lẽ chỉ có một mối phúc thôi: nên
giống Chúa Yêsu Kitô, đồng hình đồng dạng với Ngài.
Như
thánh Y-nhã đã chỉ trong sách Linh Thao (LT.136-148).
Cần
lưu ý:
·
ma qủy là thực tại vô
hình, không như con người chúng ta;
·
để nói về những thực
tại đó, người ta không thể không dùng những hình ảnh[4], hoặc những
ý niệm[5] và từ ngữ
để diễn tả;
·
có người cho rằng những
hình ảnh thánh Ynhã dùng cho bài cầu nguyện này không còn thích hợp với não
trạng con người ngày nay. Nếu như vậy, họ có thể dùng những hình ảnh khác.
Ma
qủy cám dỗ con người, làm con người tham muốn của cải vật chất, và sau đó ham
muốn vinh hoa thế gian; và hậu qủa là tính kiêu ngạo tự mãn!
Điều
thánh Y-nhã nói về mưu chước của ma qủy rất chính xác, vì:
·
Người xưa cũng nói “có
tiền mua tiên cũng được”, “kim ngân phá lề luật”; ngày nay người ta nói “đồng
tiền là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, sức khoẻ của tuổi già, cái đà
của danh vọng, cái lọng để che thân, cán cân của công lý”;
·
Những người có tiền
thường được tôn trọng, được kính trọng “qúa mức”. Có tiền thường dễ có địa vị;
người ta có thể mua công danh chức tước;
·
Với tiền bạc, người ta
làm được nhiều chuyện đến độ người ta nghĩ rằng họ có thể làm được mọi chuyện
với tiền bạc; và như vậy người ta dễ đi đến tự mãn kiêu ngạo.
Tôi
có cho rằng “giầu có danh vọng chức quyền” là con đường ma qủy dùng để trói
buộc con người không? Trong cuộc sống thường ngày tôi có đồng lõa và đi theo
đường lối của ma qủy không?
Đức
Yêsu khuyên bảo các môn đệ của Ngài hãy tìm cách giúp con người sống nghèo khó
trong lòng tột bực, và ngay cả chấp nhận nghèo khó cụ thể nếu Chúa muốn và nếu
Chúa được phụng sự hơn; thứ đến giúp họ ao ước chịu xỉ nhục và khinh chê; và từ
hai điều đó sẽ có đức khiêm nhường.
Sở
dĩ như vậy, vì nghèo giúp người ta dễ trông cậy vào Chúa hơn; và một khi nghèo,
con người dễ bị khinh khi coi thường; và như vậy, sẽ giúp người ta dễ nhận ra
sự thật về chính mình “không là gì cả”, và giúp người ta khiêm nhường thực sự.
Tôi
có chấp nhận lời huấn dụ và con đường của Chúa không? Tôi có sẵn sàng sống theo
đường Người chỉ dạy không?
Tâm sự
Xin
cho mình được nghèo và xỉ nhục, để được đứng vào dưới cờ thập giá của đức Yêsu
Kitô, để được nên giống Chúa Kitô hơn.
Khung cảnh
Như
thể chúng ta hiện diện tại chỗ gặp gỡ giữa đức Yêsu và người thanh niên giầu
có: “nhằm lúc Ngài ra đi lên đàng” (Mc.10,17).
Ơn xin
Nhận
ra lời mời gọi của Chúa và mau mắn quảng đại đáp trả tiếng gọi của Ngài.
Điểm
Cách
cầu nguyện của chúng ta trong bài này là chiêm niệm, tức là “nhìn nghe quan
sát, suy nghĩ để rút ích lợi”.
Anh
thanh niên này rất tốt, anh đã giữ thập giới từ thuở bé; không chỉ thế, anh còn
bận tâm khao khát sự sống đời đời.
Anh
ta kính trọng đức Yêsu, điều này được thấy qua cung cách bái chào. Anh ta đặt
hy vọng nhiều nơi đức Yêsu, chính vì thế anh ta mới tìm hỏi khao khát của anh
ta nơi Ngài. Còn đức Yêsu, Ngài thương anh ta cách đặc biệt “đức Yêsu nhìn
người ấy đem lòng yêu mến”.
“Ngươi
chỉ thiếu một điều. Đi đi, có gì thì đem bán mà cho kẻ khó, và ngươi sẽ có một
kho tàng trên trời, rồi đến theo Ta” (Mc.10,21). Lời mời gọi này, cho anh thanh
niên giầu có này thấy con người thực của anh ta hơn. Anh bỏ đi buồn rầu, vì anh
không thể dứt bỏ được của cải. Anh không đáp lại lời mời gọi của đức Yêsu.
Đâu
là kho tàng của tôi mà Chúa mời gọi tôi dứt bỏ? Tôi có sẵn sàng dứt bỏ để đi
theo Ngài không? Nếu tôi không dứt bỏ, tôi không thể theo Ngài được!
Như
thể đức Yêsu chữa thẹn mà Ngài nói “những người có của khó vào được Nước Thiên
Chúa biết bao”, nhưng sự thực là như lời đức Yêsu nói; các tông đồ phản ứng
bằng thái độ kinh ngạc “ngẩn người ra”. Đức Yêsu nói lại điều Ngài đã nói một
cách rõ ràng hơn: “Này các con, khó vào được Nước Thiên Chúa biết bao! Lạc đà
qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào Nước Thiên Chúa”; các tông đồ tỏ thái
độ bằng lời nói: “vậy thì còn ai có thể được cứu?”. Và đức Yêsu dứt khoát hơn
bằng cả lời nói lẫn thái độ và cái nhìn: “nơi loài người thì không thể được,
nhưng không thế nơi Thiên Chúa, vì mọi sự đều là có thể nơi Thiên Chúa”.
Thái
độ của tôi đối với của cải như thế nào? Tôi đã thực sự coi giầu có là một mối
họa không, hay tôi đã coi nó là một mối phúc?
Tuy
dù các tông đồ là những người nghèo, nhưng những điều các vị bỏ cũng là tất cả
với các ngài: cha mẹ, anh chị em, con cái,v.v.
Để
theo Chúa, các tông đồ đã từ bỏ tất cả. Tôi có sẵn sàng từ bỏ tất cả để theo
đức Yêsu không? Tôi có sẵn sàng từ bỏ những gì “qúy nhất” đối với tôi, để theo
Ngài không?
Tâm sự
Thân
thưa với Chúa về kho tàng của tôi, về những gì ngăn cản tôi tới với Chúa, và
xin Chúa giúp mình quảng đại với Chúa hơn.
Khung cảnh và Ơn xin như thánh Y-nhã chỉ trong sách Linh Thao (LT.149-157).
Điểm
Đâu
là quyến luyến lệch lạc của tôi? Có thể đó là một kỷ vật, một chỗ ở, một công
việc, một nghề nghiệp, một tương quan với người đồng phái hay khác phái,v.v.
Nếu
chú ý, chúng ta đã có thể nhận ra quyến luyến lệch lạc hay “kho tàng” của mình
qua những chia trí trong giờ cầu nguyện[6].
Trong
quá khứ, tôi đã thuộc mẫu người thứ mấy? Hiện tại, tôi thuộc mẫu người thứ mấy?
Nếu tôi chưa thuộc mẫu người thứ ba, tôi có ao ước cho tôi được thuộc mẫu người
thứ ba không?
Mẫu
người thứ nhất mới chỉ muốn bỏ quyến luyến lệch lạc, chứ họ không chịu dùng
phương thế để bỏ nó.
Mẫu
người thứ hai muốn bỏ lòng quyến luyến lệch lạc nhưng lại muốn giữ lại cái mà
họ quyến luyến.
Mẫu
người thứ ba muốn không còn quyến luyến lệch lạc nữa, nên sẵn sàng bỏ cả cái mà
mình quyến luyến; Họ sẵn sàng đến độ chỉ giữ lại cái đó nếu thấy rõ rằng Chúa
muốn họ giữ lại cái đó; còn nếu không thấy rõ Chúa muốn họ giữ, thì họ bỏ;
trong khi chờ đợi để biết Chúa muốn họ thế nào, họ coi như mình đã bỏ.
Tâm sự
Nói
chuyện thân thưa với Chúa khi nhìn thấy rõ về con người của mình; xin Chúa giúp
mình yêu Chúa bằng hành động, bằng chính đời sống cụ thể và từ bỏ của mình.
Khung cảnh:
Bên
bờ giếng Yacob, đức Yêsu mỏi mệt, đói và khát. Đức Yêsu khẳng định: “của ăn của
Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta” (Yn.4,34).
Ơn xin:
Xin
cho con hiểu Chúa hơn, yêu Chúa hơn và theo Chúa hơn. Xin cho con luôn biết
lắng nghe và thực hiện Lời Chúa trong từng giây phút của đời sống con như Chúa
đã luôn tìm và thực hiện thánh ý Chúa Cha trong suốt cuộc sống tại thế.
Điểm:
Đức
Yêsu là Ngôi Lời Nhập Thể. Thiên Chúa nhập thể để thực hiện chương trình cứu độ
con người, làm cho con người nhận biết Thiên Chúa yêu thương con người, để con
người đáp trả tình yêu Thiên Chúa, và như vậy con người được hạnh phúc.
Ngôi
Lời Thiên Chúa đã chấp nhận người cha người mẹ thuộc giai cấp bình dân nghèo
nàn, và chấp nhận để mình được sinh ra trong cảnh nghèo hèn cùng cực nơi chuồng
chiên cừu.
Thiên
Chúa Nhập Thể đã sống rất bình thường tại Nadarét, tập lẫy tập bò tập đứng tập
đi, học ăn học nói học gói học mở, học đọc học viết, học làm nghề thợ mộc với
thánh Yuse.
Đức
Yêsu đã sống bình thường như một em bé ở Nadarét, được đối xử như mọi em bé
khác cùng tuổi không có gì ưu tiên. Có lẽ về khả năng thông minh, đức Yêsu cũng
bình thường như bao người, bởi vì Ngài giống chúng ta mọi đàng trừ tội
(Dt.2,17;4,15).
Năm
được 12 tuổi, vì được Thánh Thần thúc đẩy nên Ngài đã sẵn sàng ở lại đền thờ dù
không kịp báo cho cha mẹ.
Đức
Yêsu luôn sống dưới tác động của Thánh Thần. Một khi nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa
thì Ngài vâng phục, dù ý định đó như thế nào đối với Ngài chăng nữa.
Trong
cuộc đời công khai, đức Yêsu miệt mài rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Khi
người ta muốn giữ Ngài lại, Ngài nói: “Ta phải đi để rao giảng ở nơi khác nữa,
chính vì thế mà Ta đến thế gian” (Mc.1,38).
Khởi
đầu cuộc sống công khai, “Thần Khí Thiên Chúa dẫn Ngài vào hoang địa để Ngài ăn
chay, và ở đó Ngài bị ma qủy cám dỗ”(Mt.4,1). Đức Yêsu luôn sống dưới tác động
của Thánh Thần.
Trên
đường từ Yuđê về Galilê, mệt mỏi và đói khát, đức Yêsu và các tông đồ đã dừng
chân bên bờ giếng Yacob; và trong khi chờ đợi các môn đồ mua thức ăn, đức Yêsu
đã xin nước nơi chị phụ nữ để uống. Và dịp tới, đức Yêsu đã miệt mài nói về
Thiên Chúa đến quên cả đói: “Của ăn của Ta là làm theo Ý Đấng đã sai Ta”
(Yn.4,34).
Ngay
cả trong việc làm phép lạ, đức Yêsu cũng luôn tìm ý Thiên Chúa Cha; và một khi
Ngài thấy ý Thiên Chúa Cha, thì Ngài thực hiện. Chẳng hạn trong cuộc gặp gỡ với
chị phụ nữ người Syri-phênici[7] (Mc.7,24-30).
Trong
cuộc đời rao giảng Nước Thiên Chúa, khi được thúc đẩy phải nói điều gì đó, thì
Ngài nói dù bị hiểu lầm và chống đối, thậm chí phải chết:
·
“tội của ngươi đã được
tha” (Mc.2,7);
·
“trước khi có Abraham,
đã có Ta” (Yn.8,57-58);
·
“Ta và Cha Ta là một”
(Yn.10,30);
·
“Và các ông sẽ thấy Con
Người ngự bên hữu Quyền Năng và đến với mây trời” (Mc.14,62).
Đức
Yêsu luôn làm theo Ý Cha.
Trong
vườn dầu, đức Yêsu nói: “xin đừng theo Ý Con nhưng là Ý Cha” (Mc.14,36). Trên
thập giá, dù bị cám dỗ rằng Thiên Chúa đã bỏ rơi Ngài “Lạy Thiên Chúa, sao Ngài
nỡ bỏ con?” (Mc.15,34), nhưng Ngài vẫn một niềm tin tưởng “Lạy Cha, con phó
thác hồn con trong tay Cha” (Lc.23,46), và Ngài sẵn sàng chấp nhận tất cả những
gì Thiên Chúa cho xảy tới với Ngài “Đã hoàn tất” (Yn.19,30).
Tâm sự
Đức
Yêsu là Thiên Chúa mà Ngài luôn tìm kiếm và thực hiện Ý Cha trong từng biến cố
của đời Ngài, xin cho mình cũng được nên giống Ngài, luôn tìm kiếm và thực hiện
Thánh Ý Thiên Chúa.
Khung cảnh
Nhìn
đức Yêsu chết thê thảm trên đồi Calvê, và Ngài bị coi như người tội lỗi.
Ơn xin
Cảm
nghiệm Chúa yêu thương mình vô cùng, và xin cho mình yêu Chúa đến độ ao ước trở
nên giống Ngài, đồng hình đồng dạng với Ngài.
Điểm
Trong
qúa khứ tôi ở bậc khiêm nhường nào? Và hiện tại tôi ở mức độ nào?
Mức
độ khiêm nhường thứ nhất: “thà chết hay được tất cả thế gian, tôi cũng không
phạm một tội trọng”.
Mức
độ khiêm nhường thứ hai: “bình tâm, thà chết cũng không phạm một tội nhẹ[8]”; nghĩa là,
điều nào làm vinh danh Thiên Chúa hơn thì
tôi làm, còn trong trường hợp cả hai đều làm vinh danh Thiên Chúa ngang
nhau thì tôi không nghiêng chiều về điều này hơn điều kia[9].
Mức
độ khiêm nhường thứ ba: “yêu Chúa đến độ muốn nên giống Chúa, muốn được đồng
hình đồng dạng với Chúa Yêsu Kitô”. Ở mức độ tình yêu thứ ba này, nếu điều nào
làm vinh danh Thiên Chúa hơn thì tôi làm; nhưng nếu trong cả hai trường hợp đều
làm vinh danh Chúa ngang nhau, thì để nên
giống Chúa Yêsu hơn, để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài hơn, tôi chọn
trở nên nghèo với đức Yêsu nghèo hơn là giầu, tôi chọn bị coi là xỉ nhục với
đức Yêsu bị xỉ nhục hơn là được kính trọng, tôi chọn bị coi là điên dại với đức
Yêsu bị coi là điên dại hơn được coi là khôn ngoan thông thái trên đời.
Tôi
vẫn thường nói rằng tôi yêu mến Chúa! Nếu tôi yêu mến Chúa thực, chắc tôi đã
xin được đồng hình đồng dạng với Ngài.
Nếu
tôi đã không dám xin được yêu Chúa ở mức độ khiêm nhường thứ ba, đó là dấu chỉ
cho thấy tôi chưa yêu Chúa nhiều lắm, tôi chưa tin tưởng phó thác tất cả cho
Thiên Chúa, tôi chưa tin rằng Thiên Chúa yêu tôi vô cùng. Nếu như vậy, hãy
khiêm tốn xin Chúa củng cố đức tin cho mình, xin Chúa làm cho mình yêu Chúa, và
xin cho mình yêu Chúa đến độ ao ước trở nên giống Chúa, đồng hình đồng dạng với
Ngài.
Tâm sự
Làm
ba cuộc tâm sự, một với đức Maria, một với Chúa Yêsu Phục Sinh đang ngự bên hữu
Thiên Chúa, một với Thiên Chúa Cha. Xin cho mình được đứng dưới cờ thập giá của
đức Yêsu bằng hành động:
·
ao ước sống nghèo khó
tinh thần tột bậc và thái độ sẵn sàng nghèo thực sự nếu Chúa muốn;
·
ao ước chịu xỉ nhục
khinh chê với Chúa hơn là được vinh vang trần thế.
Làm
lựa chọn bậc sống theo chỉ dẫn của sách Linh Thao (LT.178-183).
Chọn
lựa bậc sống là việc rất quan trọng, nên hãy làm hết sức cẩn thận. Nếu ta làm
việc chọn lựa bậc sống tốt, ta sẽ sống hạnh phúc hơn.
Khung cảnh
Như
mình đang hiện diện trước tôn nhan Chúa và triều đình thần thánh trên trời. Các
thánh và các thiên thần đang cầu bầu cho tôi.
Ơn xin
Cảm
nhận Chúa yêu mình nên đã can thiệp vào đời mình, để gìn giữ mình, và làm mình
thuộc trọn về Chúa.
Điểm
Tại
sao tôi đi tu?
Lúc mới đi tu, tôi có ý thức Chúa gọi tôi
không? Lúc đó, tôi đi tu vì tôi muốn, hay tôi thấy Chúa gọi tôi nên tôi đi?
Còn bây giờ, tôi có xác tín Chúa gọi tôi
sống đời dâng hiến không?
Có
dấu chỉ khách quan[10] nào trong
suốt đời tôi, cho thấy Chúa đã can thiệp vào đời tôi, để gìn giữ tôi cho tới
bây giờ, để làm tôi thuộc về Chúa cho tới ngày hôm nay?
Tâm sựï
Thân
thưa với Chúa, Đấng đã yêu thương tôi vô cùng. Cảm tạ vì bao hồng ân Chúa ban
cho mình trong suốt đời.
HOME CHIA SẺ LỜI CHÚA LINH ĐẠO THẦN HỌC ĐỜI SỐNG SOME THEMES IN
ENGLISH
HIỆN
TẠI MỚI QUAN TRỌNG BẠN ĐƯỜNG LINH THAO
ĐỂ TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC HƠN
LINH
THAO MƯỜI NGÀY LINH THAO TRONG CUỘC SỐNG ĐẶC SỦNG DÒNG TÊN SÁCH LINH THAO
CỦA THÁNH YNHÃ
Chúc bạn an vui hạnh phúc.
phamthanhliem
[1] Có thế, chúng ta mới hiểu tại sao đức Yêsu ở lại Yêrusalem từ sáng mà chiều tối đức Maria và thánh Yuse mới nhận ra.
[2] trừ Chúa và Mẹ.
[3] Có thể gọi là núi so với mặt biển, nhưng nếu mình đang ở trên núi, thì nó lại là đồi.
[4] như trong hội họa và điêu khắc.
[5] ý niệm, tiếng Hy Lạp là eidos: hình ảnh.
[6] Xem LT.327
[7] Ban đầu đức Yêsu không muốn làm phép lạ vì Ngài nghĩ rằng “không nên lấy bánh của con cái mà quăng cho chó”, nhưng khi Ngài thấy đức tin của chị ta- mà đức tin là hồng ân của Thiên Chúa- dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa muốn, thì Ngài đã cho chị ta được như chị ta xin.
[8] Ở đây luôn hiểu là tội cố tình.
[9] Có thể nói: “sao cũng được”; nhưng, người như vậy không có nghĩa là người “ba phải”.
[10] Ở đây hiểu là dấu chỉ “khách quan” đối với đương sự. Dấu chỉ khách quan này có thể rất chủ quan.