HOME CHIA SẺ LỜI CHÚA
LINH ĐẠO
THẦN HỌC
ĐỜI SỐNG
SOME THEMES IN ENGLISH
DẪN NHẬP THẦN HỌC
MẶC KHẢI
SẼ SỐNG NẾU BẠN TIN TÔN GIÁO NGOÀI KITÔ ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG
MẶC KHẢI
Jptl
MỤC LỤC:
PHẦN III: TRONG DÒNG LỊCH SỬ HỘI THÁNH
Không một giáo phụ nào có ý định
soạn thảo một khảo luận về mặc khải, tuy vậy người ta vẫn tìm thấy những tư
tưởng rải rác trong các tác phẩm của các ngài để làm một tổng hợp về chủ đề này[1].
Khi tìm hiểu tư tưởng của một tác
giả nào đó, người ta phải đọc bản văn tác giả để lại trong bầu khí văn chương
tư tưởng thời đại đó, cũng như phải hiểu bản văn đó trong chính mạch văn của
tác giả. Phải cẩn thận để tránh những sai lầm mà nhiều người vấp phạm, là đọc
bản văn xưa theo não trạng hiện đại, và không để ý đến sự thay đổi ý nghĩa của
từ ngữ theo những nền văn hóa và thời đại khác nhau.
Thánh Ynhã Antiokia sống vào cuối
thế kỷ thứ nhất sang đầu thế kỷ thứ hai sau công nguyên; Ngài chết khoảng năm
110 dưới triều hoàng đế Trajan: bị đưa làm mồi cho thú dữ ăn thịt. Ngài có biệt
danh là “người mang Thiên Chúa” (Theophoros). Ngài là giám mục của Antiokia.
Trên đường được giải tới Roma để đem ra xét xử, Ngài đã viết bảy lá thư cho các
giáo đoàn. Chính nhờ những lá thư này mà người ta biết tư tưởng của thánh nhân[2].
a. Hoàn cảnh lịch sử
Vào cuối thế kỷ thứ nhất sang đầu
thế kỷ thứ hai, dân Do Thái vẫn sống dưới ách đô hộ của người Roma và bị thù
ghét đặc biệt sau biến cố năm 70. Các kitô hữu, sau biến cố bị Nêron vu cáo đốt
thành Roma, bị nghi ngờ và căm ghét nhiều hơn.
b. Tư tưởng tôn giáo
Vào thời điểm này, bộ Tân Ước đã
hình thành trọn vẹn, đã được lưu truyền và được dùng trong các cộng đoàn kitô
nhưng chưa rõ ràng như hiện nay.
Các kitô hữu, khi sống chung với dân
ngoại cũng như với người Do Thái giáo, phải trả lời những câu hỏi liên quan đến
đức tin của mình, cũng như phải đáp trả những bài bác của những người theo
triết thuyết Hy lạp hoặc Do thái giáo. Nhờ những nỗ lực nhằm trả lời này, mà có
những tài liệu như hiện nay.
Trong thư gởi cộng đoàn Magnesios,
thánh Ynhã Antiokia viết: “Bởi vì các tiên tri đã sống theo Đức Yêsu Kitô, vì
thế các ngài đã bị hành hình; các ngài đã được linh ứng bởi ân sủng của Người,
để những người không tin được xác tín hoàn toàn rằng chỉ có một Thiên Chúa,
Đấng tỏ lộ bởi Đức Yêsu Kitô Con Ngài, là Lời của Ngài xuất thân từ im lặng,
Người Con làm hài lòng Ngài trong mọi sự” (Ad Magn. 8, 2).
Với Ynhã Antiokia, Đức Yêsu Kitô
được coi là trung tâm của mặc khải, ngay cả khi đề cập đến các tiên tri. Khi
người theo Do Thái giáo nại đến Cựu Ước, Ynhã nại đến Đức Yêsu Kitô với thập
giá sự chết và phục sinh của Ngài (Ad Philadenphenses 8, 2).
Với Ynhã Antiokia, Tin Mừng không là
những quyển sách, nhưng là Đức Yêsu Kitô và cuộc khổ nạn cùng phục sinh của
Ngài (Ad Philadenphenses 9,2 )[3].
Thánh Justin (100-163) sinh trong
một gia đình Hylạp ngoại giáo, là một triết gia, trở lại. Ngài biện hộ cho đạo
trước các triết gia ngoại cũng như trước hoàng đế Antoin Le Pieus. Ngài bị chém
đầu vì đức tin dưới thời hoàng đế Marc Aurène ở Roma[4].
a. Bầu khí tư tưởng
Justin sống trong thời ngộ đạo phát
triển và thịnh hành. Chủ đề mặc khải hàm chứa trong vấn đề biết Thiên Chúa. Có gì khác biệt giữa mặc khải kitô giáo và cái
biết nơi ngộ giáo?
Trong thế giới chịu ảnh hưởng văn
hóa hy-lạp, kitô hữu trả lời sao cho những triết gia đại diện cho não trạng của
đa số dân chúng cho rằng “Thiên Chúa- Đấng trên cao không thể khám phá, và giả
như khám phá được thì cũng không thể diễn tả được[5]”?
Theo triết lý này, quan niệm “Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối cao vời”, không thể
dung hợp với đức tin kitô giáo cho rằng: Thiên Chúa là Đấng tạo dựng tất cả
cách tự do, và can thiệp vào lịch sử!
b. Đức Kitô trung gian
Vấn đề được đặt ra: “Tính không thể
xác, không cho phép Thiên Chúa giao tiếp trực tiếp với thế giới” (Dial. 127, 2;
Apol. II, 7.9). Tatien, một học trò của Justin, giải thích rằng: “đặc tính
thiêng liêng của Thiên Chúa, là lý do làm Ngài không thể được hiểu cách vật
chất được (Adversus Graecos Oratio, IV, 1). “Làm sao Ngài có thể nói hay tỏ lộ
cho ai ở một góc nào đó trên trái đất này được?” (Dial. 127, 3)! Làm sao giải
quyết vấn nạn “Thiên Chúa siêu việt” có thể mặc khải trong không gian thời
gian? Phải chăng sự kiện Thiên Chúa mặc khải trong không gian thời gian, phủ
nhận tính siêu việt của Thiên Chúa?
Để giải quyết vấn đề này, Justin chú
ý tới khía cạnh trung gian của Đức Kitô: “bởi ý Thiên Chúa, Abraham Ysaac và
Yacob đã thấy Đấng là Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, là Đấng được sai gởi
(angelos), bởi vì Ngài phục vụ ý định của Cha, Ngài là Đấng- bởi ý muốn của
Cha- đã làm người và sinh bởi đức trinh nữ, Ngài là Đấng khi xưa đã lấy hình
lửa nói chuyện với Môsê giữa bụi gai (Dial. 127, 4).
Đối diện với người Do Thái, Justin
giải thích sự thần hiển trong Cựu Ước theo nhãn quan kitô:
Lúc
khởi đầu, Lời (logos) đã hành động như thiên thần (Dial. 56, 4; 128, 2), như sứ
giả (Apol. I, 63, 5).
Trong
nhập thể, mặc khải của Thiên Chúa đạt tới chóp đỉnh (Dial. 127, 4; Apol. I,
63). Như vậy, đối nghịch với quan niệm Do Thái, biến cố Yêsu Kitô được trình
bày như thời điểm tối cao của mặc khải thần linh. Các sự kiện lịch sử được viện
dẫn về biến cố này không cho phép có lời giải thích thần thoại về nhập thể
(Apol. I, 13, 3; I, 46, 1; Dial. 30, 3). Mặt khác, quan niệm thần học về lịch
sử cho thấy đặc tính cứu độ của mặc khải (Apol. I, 23, 2; II, 5, 4).
Điểm mang nhiều ý nghĩa trong thần
học về mặc khải của Justin, là ông đồng nhất đức Yêsu lịch sử với Lời (Logos):
“Cha
của hoàn vũ có một người Con- Đấng là lời và trưởng tử của Thiên Chúa, là chính
Thiên Chúa nữa. Ngày xưa Ngài đã hiện ra cho Môsê và các tiên tri, khi thì dưới
hình lửa, khi thì dưới hình thân xác, nhưng rất mới đây, vì vâng phục ý Cha và
để cứu rỗi những người tin vào Ngài, Ngài đã làm người sinh bởi người nữ đồng trinh,
và đã nhận lãnh trên mình những xỉ nhục và đau khổ, để chiến thắng cái chết bởi
cuộc tử nạn và phục sinh của chính Ngài” (Apol. I, 63, 15tt; cf. I, 23).
Như một triết gia, Justin đã đem
quan niệm lời trong triết lý Hy lạp và trong tư tưởng Do Thái để giải quyết vấn
đề được thế giới ngoại đạo đặt ra cho vấn đề mặc khải kitô giáo. Nhờ quan niệm
Lời là chính Đức Yêsu Kitô, mà mặc khải trong Đức Yêsu Kitô được quan niệm như
một tiến trình cứu độ được thể hiện torng lịch sử (Apol. I, 5, 4).
Lý thuyết về “logos spermatikos”
giúp Justin nhận ra rằng: các triết gia và các nhà làm luật trước Đức Kitô cũng
được tham dự vào chân lý (Apol. II, 10, 2; cf. Ga. 14, 6), và chân lý trọn vẹn
chỉ được ban cho nhân loại qua Đức Yêsu là Lời (Apol. II, 8, 3).
Trước Đức Kitô, có sự hiện diện hạt
giống của lời nhân loại, nhưng điều này không được hiểu hoặc không được đồng
nhất với mặc khải tự nhiên, mà phải được hiểu: mọi chân lý và mọi thực tại đều
mang dấu ấn của đức Kitô (cf. Apol. II, 10, 8)[6].
Thánh Irénée, một nhà hộ giáo nổi
tiếng, sinh tại Tiểu Á, là học trò của thánh Polycarpe de Smyrne. Vào khoảng
năm 177, Ngài được cử làm giám mục kế vị Pothin tại Lyon. Thánh nhân chết vì
đạo vào thời Septime Sévère khoảng năm 202[7].
Các vị hộ giáo, ngoài việc minh
chứng Kitô giáo sở hữu mặc khải tuyệt đối, các ngài còn phải đương đầu với
những giải thích sai lạc mặc khải kitô giáo, hoặc do những người lạc giáo giải
thích tín điều cách sai lạc, hoặc do những người theo các tôn giáo khác cũng
nhận họ có mặc khải, chẳng hạn như ngộ giáo.
Ngộ giáo cho rằng, con người, tự sức
mình không thể đạt tới tri thức nhờ đó con người được cứu độ. Họ cho rằng những
tri thức tôn giáo, những tri thức cứu độ mà họ có, được mặc khải từ trên. Thời
thánh Irénée, có những người mang danh kitô hữu nhưng thực chất họ là những
người theo ngộ giáo, họ chủ trương: “Thiên Chúa đích thực không ai đã biết
trước khi Chúa chúng ta đến; Thiên Chúa mà các tiên tri rao giảng, không là Cha
của đức Kitô” (Adversus Haer. IV, 6, 1). Lập trường này hàm chứa nhị nguyên
thuyết của ngộ giáo: Thiên Chúa đích thực và Đấng tạo hóa không đồng nhất với
nhau. Tri thức cứu độ (gnose) không đến từ Đấng tạo hóa, nhưng đến từ Thiên
Chúa chân thực. Họ cho rằng không phải mọi người đều có thể nhận lãnh tri thức
này, mà chỉ có một số người sống theo Thần Khí thôi. Phủ nhận nét tích cực của
thế giới và lịch sử, hàm chứa phủ nhận mặc khải trong dòng lịch sử, phủ nhận
Đức Yêsu lịch sử và chỉ chấp nhận Đức Yêsu “theo Thần Khí” mà thôi.
a. Mặc khải và lịch sử cứu
độ
Irénee nhấn mạnh rất nhiều đến lịch
sử cứu độ trong công trình cứu chuộc. Với Irénée, nhị nguyên siêu hình của lạc
giáo không là giáo lý của Kinh Thánh. Irénée cho rằng Đức Kitô hoạt động trong
toàn lịch sử cứu độ; ngài phủ nhận sự đối nghịch giữa Thiên Chúa Tạo Hóa và
Thiên Chúa Cứu Độ. Với Irénée, Thiên Chúa tạo hóa cũng chính là Thiên Chúa cứu
độ trong dòng lịch sử[8].
“Tư tưởng của những người theo ngộ giáo xa rời Thiên Chúa chân thực. Họ không
biết rằng Lời, Con duy nhất của vị Thiên Chúa này, là Đấng luôn hiện diện với
nhân loại, đã liên kết với công trình được nhào nặn bởi chính Ngài, và đã in
dấu vào công trình này bằng thần tính của Ngài. Lời này đã làm người, đó là Đức
Yêsu Kitô, Đấng đã chịu đau khổ vì chúng tôi, đã phục sinh vì chúng tôi, sẽ đến
lần nữa trong vinh quang của Cha để phục sinh mọi thân xác, mang lại ơn cứu độ,
và làm sáng lên quy luật thẩm phán chí công trong hoàn vũ đã quy phục Người.
Chỉ có một Thiên Chúa là Cha như chúng tôi đã trình bày, và chỉ có một Đức Kitô
Yêsu Chúa chúng ta đến trong suốt nhiệm cục phổ quát và thu hồi tất cả trong
Ngài” (Ad. Haer. III, 16, 6; 24, 1).
Với từ ngữ nhiệm cục (oikonomia),
Irénée muốn diễn tả hành vi cứu độ của Thiên Chúa trong Đức Yêsu Kitô, và nhấn
mạnh đặc biệt đến những biến cố cứu độ.
Khởi từ Eph.1, 10 Irénée muốn làm
nổi bật biến cố Yêsu Kitô, cho rằng biến cố này vang vọng không chỉ trong bình
diện hoàn vũ, nhưng còn trong bình diện lịch sử cứu độ nữa. Qua từ ngữ nhiệm
cục, Irénée đã đào hố chôn ngộ thuyết- giáo thuyết chủ trương có sự đối nghịch
giữa Cựu Ước và Tân Ước. Theo lý luận của những người ngộ thuyết, có hai Đức
Kitô, một Đức Kitô nhập thể và một đức Kitô vô hình (Ad. Haer. III, 16, 6 cf.
IV, 9, 1; 36, 5). Đối nghịch với khuynh hướng sai lạc này, giám mục thành Lyon
khẳng định sự duy nhất lịch sử và duy nhất hữu thể của Đức Kitô.
Mặc khải theo Irénée luôn được đặt
trong văn mạch cứu chuộc học. Chính trong viễn ảnh này mà chúng ta đọc lời chú
giải Mt. 11, 25-27 của Ngài: “Cha, Đấng vô hình đối với chúng ta, đã được biết
bởi Lời của Ngài, và mặc dầu (Cha) là Đấng không thể diễn tả nổi, đã được diễn
tả bởi Lời Ngài; và ngược lại, Lời chỉ được biết bởi Cha thôi. Đó là chân lý
lưỡng diện mà Chúa đã cho chúng ta biết. Vì thế, Con mặc khải cái biết về Cha
bằng sự tỏ lộ riêng của Ngài; đóù là cái biết về Cha... bởi vì tất cả mọi sự
được biểu lộ nhờ trung gian của Lời” (Ad. Haer. IV, 6, 3).
Thiên Chúa mặc khải, cũng chính là
Thiên Chúa tạo dựng và cứu chuộc con người trong dòng lịch sử: “Ngài là Thiên
Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Yacob, Thiên Chúa của kẻ
sống; Ngài là Đấng lề luật loan báo, các tiên tri hứa, Đức Kitô mặc khải, các
tông đồ truyền lại, và Giáo Hội tuyên xưng. Do Lời là Con Ngài, Ngài là Cha của
Chúa chúng ta, Đức Yêsu Kitô, Đấng mặc khải Ngài. Và Ngài tỏ lộ cho những kẻ
Ngài mặc khải cho, bởi vì chính cho họ mà Con đã mặc khải Ngài cho họ (Ad.
Haer. II, 0, 9).
Irénée quy chiếu mặc khải về Đức
Kitô, và Đức Kitô này không thể tách biệt với Con làm người. Nhiệm cục cứu độ
(oikonomia) không bẻ gẩy tính duy nhất của quan niệm về Thiên Chúa: nhận thức
(mặc khải) vẫn liên kết với sáng kiến của Cha[9].
Chính Con đã mặc khải Cha. Nếu ai rao giảng một Thiên Chúa vô minh, là chống
lại đức Kitô; vì Đức Kitô Chúa chúng ta là Con Thiên Chúa (Ad. Haer. IV, 6, 4).
Tạo dựng, nhìn trong nhãn quan duy
nhất, cũng là công trình mặc khải của Thiên Chúa toàn năng (Ad. Haer. II, 9, 1;
30, 9).
Khởi từ tạo dựng, qua luật và các
tiên tri, chúng ta đạt đến Đức Kitô. Xét như là Con, đức Kitô là thực thể hữu hình
của Cha (Ad. Haer. IV, 6, 6). Các biến cố lịch sử không chỉ hướng chúng ta đến
với Đức Kitô, nhưng nó còn là công trình của Ngài và mặc khải Thiên Chúa[10].
Như vậy, Thiên Chúa mặc khải ngày càng rõ qua những thời điểm khác nhau của
lịch sử cứu độ. Sự nhập thể của Lời thâu tóm mọi thời điểm của nhiệm cục đi
trước[11].
Khi nhấn mạnh các biến cố của lịch
sử cứu độ, Irénée không cho ngộ đạo có dịp len lõi vào giáo lý kitô giáo trong
lãnh vực mặc khải; và cũng tương tự như vậy khi quy chiếu tiến trình mặc khải vào
biến cố Yêsu Kitô.
Thánh Irénée trình bày các hành vi
cứu độ như một khoa sư phạm. Thiên Chúa dạy dỗ con người về Ngài để họ biết
Ngài hơn. Và trong việc này, nhiệm vụ của Lời nhập thể rất quan trọng: “Chúng
ta chỉ có thể biết về các mầu nhiệm của Thiên Chúa, nếu Thầy của chúng ta, tức
Ngôi Lời, làm người. Thực vậy, không một ai khác có khả năng mặc khải các bí
mật của Cha, nếu không phải là Lời Ngài” (Ad. Haer. V, 1, 1).
Không như những vị thầy nơi ngộ đạo,
Thiên Chúa là vị Thầy chân thực và duy nhất của các tín hữu. Vị Thầy thần linh
đã tỏ lộ Con Ngài trong những thời gian sau cùng này, để làm xấu hổ những kẻ
cứng tin (x. Ad. Haer. IV, 35, 5).
Các tín hữu Kitô không nhận giáo
huấn kiểu ngộ đạo như nhớ lại (réminiscence), nhưng nhận do trung gian hành vi
cứu chuộc của Thiên Chúa. Các cuộc tranh luận với ngộ đạo làm Irénée nhấn mạnh
các dữ kiện của nhiệm cục, và quy hướng thần học của Ngài vào sự kiện Yêsu
Kitô. Ngộ đạo phân biệt Đức Kitô và Đức Yêsu theo xác thịt, còn với Irénée,
việc nhập thể của Con là chóp đỉnh của mặc khải.
b. Kinh Thánh
Thần học của Irénée xây nền trên các
dữ kiện của lịch sử cứu độ, và như vậy liên quan mật thiết đến Kinh Thánh. Các
người ngộ đạo cũng nại đến Kinh Thánh, và cũng có quy điển Kinh Thánh riêng của
họ, nhưng có một khác biệt sâu xa giữa họ và các kitô hữu. Ngộ đạo cho rằng
“nguồn gốc của cái biết là cái biết”, và như vậy, họ có thể vượt qua Kinh
Thánh; ngược lại các kitô hữu chính thống và đại diện là Irénée, coi trọng các
quy chuẩn của chân lý (Kanon aletheias) được chứa trong Kinh Thánh cũng như
trong truyền thống của Hội Thánh (paradosis) (Ad. Haer. III, 11, 1; 12, 6; 15,
1; IV, 35, 4).
Chứng từ căn bản về Thiên Chúa là
Kinh Thánh. Kinh Thánh truyền lại cho chúng ta hành động cứu độ của Người:
“Bởi
vì chúng ta có quy tắc là chính chân lý (regulam ipsam veritatem) và chứng từ
hiển nhiên về Thiên Chúa, nên chúng ta không còn phải tìm kiếm khám phá những
giải thích mới...” (Ad. Haer. II, 28, 1)[12].
Giữa Kinh Thánh và mặc khải có mối
dây liên kết phải được tuyệt đối duy trì, vì Kinh Thánh xác nhận hành vi cứu độ
của Thiên Chúa (Ad. Haer. II, 28, 1); tuy vậy thánh nhân không đồng nhất cách
đơn thuần chứng từ kinh thánh và thực tại lịch sử; điều này được thấy rõ vì
biến cố mặc khải đạt tới chóp đỉnh trong việc nhập thể của Lời Thiên Chúa, xảy
ra trước Kinh Thánh Tân Ước. Xét như là chứng từ về biến cố Yêsu Kitô, Tin Mừng
(và Kinh Thánh nói chung) là tài liệu mặc khải
[13].
c. Tông đồ
Nói tới Kinh Thánh Tân Ước là phải
nói tới các tông đồ; các ngài đóng một vai trò đầu tiên và rất quan trọng trong
việc hình thành Tân Ước. Các ngài là mắt xích giữa Đức Kitô và Giáo Hội.
Những người ngộ đạo đặt cái biết của
họ trên sự nhận biết của các tông đồ; còn đối với kitô hữu chân chính, các tông
đồ là bảo chứng của Tin Mừng (Ad. Haer. II, 2, 2; I, 27, 2):
“Vì
chúng ta không nhận biết nhiệm cục cứu độ bởi những ai khác ngoài những người
đã mang Tin Mừng lại cho chúng ta. Các ngài đã rao giảng Tin Mừng này đầu tiên,
và bởi ý định của Thiên Chúa, các ngài đã turyền lại cho chúng ta trong Kinh Thánh,
để Tin Mừng này trở thành nền tảng và rường cột đức tin của chúng ta” (Ad.
Haer. II, 1, 1).
Như vậy, theo Irénée, tiêu chuẩn
(mặc khải) là các tông đồ, chứ không là những truyền thống bí mật nào khác như
những người ngộ đạo chủ trương và dạy bảo. Những người ngộ đạo chủ trương có
những truyền thống truyền chân lý bí mật, chứ không do truyền thống chữ viết[14].
Chúa đã đặt các tông đồ như những nhân chứng về hành động và những lời dạy bảo
của Người (Ad. Haer. III, 12, 15). Bởi thế, các tông đồ có chỗ đứng duy nhất
trong việc lưu truyền Tin Mừng. Chỗ đứng này không bao giờ suy suyển, lung lay
hoặc già nua cằn cỗi. Hội Thánh biết rằng, đức tin của mình tựa trên uy quyền
các tông đồ. Tính tông truyền bảo đảm chân lý mặc khải.
Thánh Irénée đã thiết lập mối dây
liên kết giữa mặc khải và truyền thống khi Ngài khẳng định các tông đồ có nhiệm
vụ lưu truyền mặc khải mà Đức Yêsu Kitô đã tỏ lộ[15].
Những gì đã được mặc khải qua hành
vi cứu chuộc của Thiên Chúa, đã được ghi giữ trong Kinh Thánh dưới tác động của
Thánh Linh và được truyền lại trong Hội Thánh, là một thực tại sống động.
Kinh Thánh và truyền thống không là những thực tại được đặt bên
nhau cách độc lập, hoặc những thực tại bổ túc cho nhau dù một trong hai có thể
tồn tại không cần thực tại kia; trái lại Kinh Thánh được bảo đảm trong truyền
thống của Hội Thánh (Ad. Haer. III, 4, 1). Hội Thánh gìn giữ Kinh Thánh bằng
chính cuộc sống đức tin của mình, và truyền lại cho các tín hữu cách trung
thành.
Mặc khải được chứa đựng trong Kinh
Thánh và được truyền lại trong Hội Thánh bằng đường lối kế tục (Ad. Haer. IV,
33,8). Hội Thánh, dưới sự hướng dẫn của Thánh Linh, là tiêu chuẩn giải thích
Kinh Thánh, vì Hội Thánh là người gìn giữ truyền thống. Hội Thánh phải tùng
phục Mặc khải và những dữ kiện lịch sử cứu độ mà Kinh Thánh đã xác định[16].
Clément d'Alexandrie[17]
sinh vào khoảng năm 150 và chết vào khoảng năm 215; ngài là một giáo sư nổi
tiếng tại Alexandrie, và được coi như vị thầy sáng lập trường phái thần học
Alexandrie. Có những nhân vật lừng danh thuộc trường Alexandrie như Origène,
Athanasia, Cyrille d'Alexandrie,... ; Origènne là học trò trực tiếp của
Clément.
a. Đức Yêsu- Lời Thiên
Chúa mặc khải
“Con người được tạo dựng để chiêm
ngắm trời, con người là tạo vật thiên thai, Thiên Chúa mời gọi con người đến
nhận biết Thiên Chúa” (Protrepticus, X, 100, 3). Theo Clément, “sự nhận biết là
tri thức thần linh, là ánh sáng thắp lên trong tâm hồn con người, giúp con
người tùng phục các giới lệnh, là ánh sáng tỏ lộ mọi cái trên thế giới, là ánh
sáng làm cho con người có khả năng nhận biết chính mình, và dạy dỗ con người
tham dự vào sự sống của Thiên Chúa” (Strom. III, 44, 3).
Ngộ đạo ảnh hưởng khá mạnh thời
Clément sống. Giáo thuyết này chủ trương rằng, cái biết giúp con người được cứu
độ. Những người theo ngộ đạo cho rằng họ sở hữu tri thức cứu độ, tri thức này
đã được mặc khải cho họ. Nếu vậy, cái biết được mặc khải qua đức Yêsu Kitô có
giá trị gì?
Dựa vào Mt. 11, 25-27: “Không ai
biết Con trừ Cha, và không ai biết Cha trừ Con và những người Con muốn mặc khải
cho”, Clément cho rằng chỉ có Đức Kitô là Đấng mặc khải Thiên Chuá chân thực;
và như vậy không được tham dự vào các bói toán, và cũng không được tin vào các
lời sấm (của ngộ đạo), vì nếu không, tính duy nhất của mặc khải do đức Kitô bị
lu mờ (Protrepticus I, 10, 3). Clément cũng cho rằng các mầu nhiệm của ngộ giáo
thực sự rỗng tuếch. Họ cho rằng họ tìm được tri thức cứu độ, nhưng thực ra chỉ
có Thiên Chúa có thể mặc khải cho con người, và sự mặc khải này phải qua trung
gian của Đức Kitô, chứ không do một ai khác.
Dựa
vào Ga. 10, 9 Clément nói: “cửa này đã đóng cho tới bây giờ, và chắc rằng,
người mở nó sẽ mặc khải những cái ở bên trong và tỏ cho biết những cái mà người
ta đã không có thể biết lúc trước... Đức Kitô- vị trung gian duy nhất mặc khải
Thiên Chúa” (Protrepticus I, 10, 3). Thực tế, Yoan muốn nói về cộng đoàn cánh
chung, nhưng Clément lại giải thích như một khẳng định về nhiệm vụ mặc khải duy
nhất: các tín hữu được nhận biết và được thấy, nghĩa là được cứu độ[18].
Clément
cho rằng, ý thức của con người về sự siêu việt của Thiên Chúa, là một bằng
chứng phủ nhận ngộ đạo, vì ngộ đạo chủ trương, để có điều ấy, cần phải có mặc
khải từ trên[19]. Những điều
trên không trái với những khẳng định khác của Clément cho rằng, để biết Thiên
Chúa cần phải được mặc khải, và mặc khải này được Thiên Chúa khởi xướng; cái
biết Thiên Chúa bằng kinh nghiệm và chứng cớ khoa học thì không có thể đạt được
(Stromata V, 82, 9).
Như
vậy, “chúng ta chỉ có thể biết được cái không thể biết, nhờ ân sủng thần linh,
và bởi Lời Thiên Chúa, xuất từ Thiên Chúa” (Stromata V, 82, 4; cf. 71, 5).
Logos có một chỗ đứng rất quan trọng
trong tư tưởng của Clément:
·
“thiên thần” trong cuộc
chiến với Yacob ở Cựu Ước được giải thích là Logos.
·
Logos là gương mặt của
Cha: “Gương mặt của Thiên Chúa, là Logos. Bởi Lời (Logos) Thiên Chúa đã thành
hữu hình và khả tri” (Pedagogus 1, 57, 2; cf. Gen. 32, 29). Thiên Chúa là Đấng
có thể hiểu, chứ không hoàn toàn không thể hiểu như triết thuyết Platon thường
chủ trương[20].
·
“Người chỉ đạo chúng
ta, thuộc về chúng ta, là Thiên Chúa chí thánh, Đức Yêsu, Lời, Đấng hướng dẫn
nhân loại” (Pedagogus 1, 55, 2).
·
Clément trích dẫn Hb.1,
1 và nói: “Từ khởi đầu, ngay lúc tạo dựng thế giới, Lời đã dạy dỗ nhiều lần
nhiều cách, và dẫn đưa đến trọn lành” (Stromata VI, 58, 2); chính vì vậy “các
ngươi đừng gọi ai là thầy trên mặt đất” (Pedagogus III, 43, 2; cf. Mt. 23, 8
tt).
Sẽ dễ dàng hiểu những điều Clément
khẳng định hơn, nếu đặt mình vào khung cảnh văn hoá Hy lạp, vì trong nền văn
minh văn hoá này, Thiên Chúa được gọi là người chỉ đạo. Clément đã triển khai ý
niệm này của Kitô giáo, để giúp thế giới hiểu về Kitô giáo hơn.
b. Triết lý và mặc khải
Clément nhắc đến “nhiều giao ước”
với dân Do Thái và Hy lạp của một Thiên Chúa duy nhất (Stromata VI, 42, 3); và
trong một mức độ nào đó, Clément đặt triết lý ngang hàng với Cựu Ước: “cũng như
sự rao giảng đã đến vào thời thích hợp, cũng vậy lúc thời gian thích hợp, luật
và các tiên tri được ban cho những người man di mọi rợ, còn người Hy lạp thì
được ban cho triết lý, để chuẩn bị họ đón nghe lời rao giảng” (Stromata VI, 44,
1).
Cùng ý tưởng trên được thấy ở ngay
đầu sách của Ngài: “Trước khi Chúa đến, triết lý là chuyện không thể miễn trừ
được đối với người Hy Lạp, để dẫn họ tới công lý; còn bây giờ nó trở nên hữu
dụng để dẫn họ tới tôn kính Thiên Chúa. Nó dùng để huấn luyện trí tuệ, để trí
tuệ có thể lãnh nhận đức tin qua chứng minh” (Stromata 1, 28, 1). Trước biến cố
nhập thể, khôn ngoan được ban cho người Hy Lạp như nhiệm cục cứu độ cho họ; còn
bây giờ triết lý chỉ đóng vai trò phục vụ đức tin. Biến cố Đức Yêsu Kitô là
tiêu chuẩn và chìa khóa của mặc khải.
Clément vẫn giữ nguyên tắc cho rằng,
Thiên Chúa chỉ được biết thời Đức Kitô đến (Pedagogus 1, 20, 2). Lời đã đến để
dạy con người trở nên Thiên Chúa: “Chính là Lời, Đấng đã nói với các ông bây
giờ với tất cả sự rõ ràng, để sự cứng tin của các ông phải xấu hổ. Vâng, tôi
nói rõ, Lời đã trở nên người của Thiên Chúa, và chính người này dạy dỗ các ông
biết làm sao để trở nên Thiên Chúa (Protrepticus 1, 8, 4).
Với Clément d'Alexandrie, cả hai
giao ước (Cựu lẫn Tân Ước), tuy đến ở những thời điểm khác nhau, nhưng đều có
cùng một kết quả, và đến từ một Thiên Chúa duy nhất:
“Giao
ước là hai, do tên gọi và do thời gian, đã được ký kết theo nhiệm cục thần linh
vào thời đại và (tùy) sự tiến bộ (của con người); cả hai giao ước đều có cùng
một hiệu quả, bởi vì cả Tân Ước và Cựu Ước đều đến từ Thiên Chúa duy nhất, qua
sự trung gian của Con” (Stromata II, 29, 2).
Chính Đức Kitô là trung tâm nối kết
các biến cố mặc khải trong Cựu Ước và Tân Ước: “Lề luật, các tiên tri, Tin
Mừng, đều được liên kết tất cả trong Đức Kitô, trong một nguồn nhận biết duy
nhất” (Stromata III, 70, 3).
Tư tưởng của Origène[21]
cũng nhằm biện minh cho mặc khải Kitô giáo. Theo triết lý Hy lạp, Thiên Chúa là
Đấng siêu việt khôn dò, vậy làm sao Ngài lại có thể mặc khải cho con người? Mặc
khải kitô giáo khác với những tôn giáo nhận mình cũng có mặc khải như thế nào?
Origène sinh khoảng năm 185 tại
Alexandrie, là học trò của Clément d' Alexandrie. Ông đã đi nhiều nơi, kể cả đã
qua Roma. Origène chú giải nhiều sách trong bộ Kinh Thánh. Ông chết ở Césarée
hay ở Tyr khoảng năm 250, sau khi chịu cực hình vì đức tin[22].
Theo De Principiis, một trong những
tác phẩm đầu tiên của Origène, người ta thấy thần học của Origène triển khai từ
ý niệm Thiên Chúa.
Chịu ảnh hưởng của trường phái
Platon cũng như trường phái thần học Alexandrie, Lời đóng một vai trò rất quan
trọng. “Người ta thấy nơi Lời- Đấng là Thiên Chúa và là hình ảnh của Thiên Chúa
vô hình- Cha là Đấng đã sinh ra Lời... Ai chiêm ngắm hình ảnh của Thiên Chúa vô
hình, cũng có thể chiêm ngắm Cha, nguyên mẫu của hình ảnh” (Comm. in Joan.
XXXII, 9).
Thiên Chúa mặc khải theo một chương
trình, và trong chương trình này Lời đóng vai trò hướng ngoại (De Princ. IV, 4,
8; Comm. in Joan, VI, 57; Contr. Celsum II, 66). Lời xét như người chỉ đạo, dẫn
đưa con người đến một nhận thức cao hơn (Comm. in Joan. 19, 6). Quan niệm mặc
khải bao hàm ý tưởng tiến bộ, được diễn tả bằng bộ ba Umbra- Imago- Veritas.
Con người có thể nhận biết Thiên
Chúa qua công trình của Người (Princ. I, 1, 6; Comm. in Cant. III), và qua việc
lắng nghe tiếng lương tâm của mỗi người (Princ.I, 3, 1). Con người có sự đồng
nhất thiêng liêng nào đó với nguyên lý của hữu thể (Hom. in Gen. 17).
Mặc khải của Thiên Chúa cho con
người đạt tới cao điểm trong biến cố nhập thể của Lời. Nơi Đức Yêsu Kitô, Lời
hiện diện không chỉ như nguồn ý nghĩa trong tạo dựng, cũng không chỉ như lực
thiêng liêng nơi con người có lý trí, mà như là autologos (Contr. Celsum V, 39;
VI, 47).
Mặc khải có tính năng động nội tại,
và hàm chứa tính tiến bộ. Sự thần hiển trong việc nhập thể của Lời liên kết với
biến cố tái lâm của Đức Kitô. Trong ngày cánh chung đó, người ta sẽ thấy Đức
Kitô “không như chúng ta thấy bây giờ, nghĩa là như Ngài không là, nhưng như là
thời đó, nghĩa là như Ngài thực sự là” (Comm. in Mt. XVII, 19).
Về sự tiến bộ của mặc khải, R.
Goegler viết: sự tiến bộ của mặc khải không hệ tại trong sự thay đổi nội dung,
nhưng trong sự khai mở tiệm tiến của nội dung, trong sự thiêng liêng hóa và
trong sự hoàn tất nội dung mặc khải[23].
Triết gia Celsus, một đại diện của
tư tưởng Hy lạp thời đó cho rằng: “Cứ theo người Do thái và Kitô hữu, Thiên
Chúa và Con Thiên Chúa đã chẳng có thể hạ cố” (Contr. Celsum V, 2). Sở dĩ
Celsus nói như vậy, vì ông thấy có sự mâu thuẫn nội tại trong lập trường của
Kitô giáo khi tuyên xưng Đức Yêsu là Con Thiên Chúa và Lời, nhưng đồng thời lại
trình bày Ngài như một người bị đánh đòn và chịu khổ hình, chứ không như Lời
thuần túy và thánh thiện (Contr. Celsum, II, 31).
Thực ra, Origène không phải là người
không cảm thấy nhức nhối vì sự “kỳ dị” này, nhưng ông cố gắng thoát khỏi lưỡng
luận này bằng lý thuyết về sự thích ứng của Lời với hoàn cảnh con người: “khi
đến với con người tìm kiếm Ngài và tiếp nhận Ngài khi Ngài hiện ra cho họ, Lời
có khả năng làm cho họ nhận biết Cha và mặc khải Cha, Đấng là Đấng vô hình
trước khi Ngài tới. Ai có thể cứu và dẫn linh hồn con người đến với Thiên Chúa
tối cao, nếu không phải là Thiên Chúa Lời? Từ khởi đầu Ngài đã ở nơi Thiên
Chúa, nhưng vì con người còn bị dính vào xác thịt, nên Ngài đã thành thịt, để
có thể được nhận biết bởi những người không thể thấy Ngài như Ngài là Lời, như
Ngài ở bên cạnh Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Được diễn tả trong hạn từ thân
xác, và được rao giảng như xác thịt, Ngài gọi đến với Ngài những kẻ là xác
thịt, để làm cho họ được bước lên cao, để họ có thể thấy Ngài như Ngài đã là
trước khi trở thành xác thịt” (Cont. Celsum VI, 68).
Origène cố gắng thiết lập sự hài hòa
giữa Kinh Thánh và những lời bài bác từ những ý thức hệ xung quanh. Qua nổ lực
này, Origène duy trì sự siêu việt của Thiên Chúa cùng với ước vọng hiểu biết
của con người; và cho thấy việc nhập thể hướng đến việc biến đổi con người, dẫn
con người đến chiêm ngắm các thực thể thiêng liêng.
Trong công thức “Đức Kitô loan báo
chính mình” (Comm. in Joan. XIII, 28), Origène trình bày quan niệm về mặc khải:
Lời làm người, vừa là Đấng mặc khải, vừa là Đấng được mặc khải.
Tương quan giữa Lời và Kinh Thánh
rất chặt chẽ: “tất cả đã được tạo dựng bởi Lời, nghĩa là không chỉ các tạo vật,
nhưng cả lề luật và các tiên tri nữa” (Comm. in Col., frgm. PG. 14, 1297c cf.
Ga. 1, 3).
Giữa Kinh Thánh và Lời nhập thể có
tương quan song đối: “Cũng như Lời được loan báo không thể sờ mó được vì bản
chất của nó như vậy (tức vô hình), nhưng một khi nó được chép lại trong sách,
một hình thức nhập thể nào đó, thì nó có thể được đụng chạm; cũng vậy, Lời của
Thiên Chúa. Theo thần tính, Lời không được thấy cũng chẳng được viết, nhưng khi
Lời thành thịt, thì Lời được thấy và được viết. Vì Ngài làm người, nên có sách
gia phả của Đức Yêsu Kitô” (Comm. in Mt., frgm. PG. 17, 289 AB).
Dưới hình thức sách, mặc khải là một
hành vi giống như nhập thể (Contr. Celsum VI, 77). Theo một nghĩa nào đó, Lời
Kinh Thánh đồng nhất với lời siêu thời gian. Kinh Thánh ở đây không chỉ được
hiểu như những trình thuật về lịch sử cứu độ được in dấu bởi Thiên Chúa Lời,
cũng không được hiểu là bộ sưu tập những chữ chết, nhưng phải được hiểu là tất
cả các biến cố cứu độ được Lời thực hiện.
Celsus cho rằng con người khó có thể
biết Thiên Chúa với cái biết tinh ròng. Để trả lời, Origène nói: “Chúng tôi cho
rằng, bản chất con người không đủ để tìm kiếm Thiên Chúa và khám phá ra Ngài
với sự tinh ròng, trừ phi với sự giúp đỡ của Đấng mà họ đã tìm kiếm. Sau khi
những kẻ tìm kiếm Ngài đã làm hết sức và đã khám phá được Ngài, họ đã thú nhận
rằng, phải có sự giúp đỡ của Ngài để khám phá được Ngài. Ngài tỏ lộ cho những
kẻ Ngài xét là hữu lý để Ngài hiện ra cho họ” (Contr, Celsum VII, 42).
Với câu trả lời trên của Origène,
mặc khải là sáng kiến của Thiên Chúa, chứ không phải do sức và tự sức con
người. Sự tiến bộ về nhận biết Thiên Chúa vẫn là ân sủng.
Origène
không để ý nhiều đến chiều kích lịch sử của mặc khải, nhưng lại nhấn mạnh đến
chiều kích đối thoại. Thiên Chúa đã mặc khải cho con người, và qua hành vi mặc
khải, Ngài khơi nguồn những tương giao mới và phong phú giữa Ngài và con người.
Augustin sinh khoảng năm 354 tại
Tagaste ở Numide. Mẹ là thánh Monica, và cha là một người ngoại chỉ trở lại vào
giây phút cuối đời. Thời thơ ấu, thánh nhân đã được mẹ dạy cho biết “ơn cứu độ
chỉ có được trong Đức Kitô”, và điều này đã in sâu trong tâm khảm Agustin. Vào
những năm 365-369, nghĩa là vào thời điểm Augustin từ 11 đến 15 tuổi, Augustin
được gởi đi học tại Madaure; chính vào thời điểm xa gia đình đầu tiên này, và
nhất là xa người mẹ đạo đức Monica, mà Augustin bắt đầu sống xa nếp sống đạo
đức. Vào năm 370, Augustin được gởi đi Carthage để học về hùng biện. Vào năm
373, lúc 19 tuổi, Augustin đọc Lecture de l'Hortensius của Cicéron, và nhận ra:
con người chỉ có hạnh phúc đích thực nếu chiếm hữu được chân lý. Từ thời điểm
này trở đi, câu hỏi nền tảng luôn được lập đi lập lại với Augustin: làm sao có
được chân lý đích thực?[24].
Trên đường tìm kiếm chân lý đích
thực, Augustin đã đến với phái nhị nguyên (Manichéisme); đây là thời điểm
Augustin làm giáo sư về hùng biện ở Tagaste năm 373, và ở Carthage vào những
năm 374-383. Nhị nguyên thuyết đã làm Augustin thất vọng, nhất là khi lãnh tụ
phái nhị nguyên là giám mục Fauste ở Milève tới Carthage vào năm 382, giám mục
này thú nhận không thể trả lời các vấn nạn của Augustin. Hơn nữa, khi Augustin
tới Roma vào năm 383, ngài thất vọng hơn nữa khi thấy đời sống vô luân của các
lãnh tụ phái nhị nguyên tại đây[25].
Vẫn miệt mài tìm kiếm chân lý đích
thực, sau khi thất bại với nhị nguyên thuyết, vào năm 383 ở Roma, Augustin tìm
đến với chủ thuyết cái nhiên (probabilisme) của trường phái tân hàn lâm (Nouvelle
Académie). Nhưng chủ thuyết này cũng làm Augustin thất vọng, vì họ nhận mình
dạy đường lối khôn ngoan, nhưng chính họ lại chủ trương thuyết cái nhiên, một
chủ thuyết lấy nghi ngờ làm chính, và cho rằng con người không hoàn toàn chắc
chắn sở hữu được chân lý.
Cũng vào năm 384, Augustin nhận ghế
giáo sư tại Milan, và ở đây Augustin gặp thánh giám mục Ambroise. Sau những lần
nghe thánh nhân giảng dạy và gặp gỡ, Augustin nhận ra chân lý. Augustin quyết
định học đạo, trở thành dự tòng vào năm 384.
Vào khoảng năm 385 Augustin khám phá
ra rằng, cần thiết phải có một uy quyền phân biệt với lý trí, để có thể sở hữu
được chân lý. Đó là Kinh Thánh hay Hội Thánh. Cũng chính vào thời điểm này,
Augustin phủ nhận hoàn toàn chủ trương thuyết cái nhiên trong việc nhận biết
chân lý. Chấp nhận Kinh Thánh và Hội Thánh là quy phạm của đức tin và chân lý,
đó là sự hoán cải tinh thần của Augustin., Tuy vậy vẫn còn nhiều vấn đề thuộc
bình diện tri thức mà Augustin còn cảm thấy lấn cấn. Augustin vẫn tiếp tục đọc
và nghiên cứu những tác phẩm của trường phái tân-Platon, chủ yếu của Plotin.
Những điều này soi sáng cho Augustin nhiều, và bổ túc những điều giám mục
Ambroise giảng dạy[26].
Vào mùa thu, tức là vào khoảng tháng
9 năm 386, một lần đang ở trong khu vườn tại Milan, Augustin nghe thấy tiếng
“Tolle, lege”, ngài đã quyết định từ bỏ tham vọng, từ bỏ hôn nhân, từ bỏ thế
gian; ngài đã cùng một số bạn bè lui về Cassiciacum để làm một loại nhà tập,
sống đời tu trì[27].
Tới đầu năm 387, Augustin trở về lại
Milan để chính thức chuẩn bị lãnh nhận bí tích rửa tội vào lễ Phục Sinh năm
387, cùng với người con Adéodat và một người khác là Alype[28].
Augustin làm linh mục năm 391; và
khi giám mục ở Hippone mất, Ngài được chọn làm giám mục tại đó năm 395. Chính
từ giáo phận nhỏ bé này, mà Ngài soi sáng Hội Thánh hoàn vũ[29].
Augustin chết ngày 28.08.430, thọ 76
tuổi, khi Ngài đang làm giám mục ở Hippone, tức Numide, nay thuộc Carthage nước
Algérie.
a. Khả năng đón nhận mặc
khải
Khi xét quan điểm của Augustin về
mặc khải, phải lưu ý đặc biệt tới lý thuyết soi sáng của thánh nhân. Chính nơi
lý thuyết soi sáng này, người ta thấy được quan niệm của thánh nhân về Thiên
Chúa và con người.
Lý thuyết “soi sáng” (illumination)
phản ánh cuộc đời tìm kiếm chân lý của Augustin với bao nhiêu năm miệt mài vất
vả nơi các trường phái nhị nguyên và Tân Hàn Lâm.
Augustin đã tìm thấy chân lý.
Khi nhận ra chân lý, tức là thấy
được sai lầm của trường phái nhị nguyên. Những người này luôn nói họ rao giảng
mặc khải của đức Kitô, nhưng thực ra họ rao giảng chính lý thuyết của họ. Họ
không có sự khôn ngoan đích thực, và cuộc sống vô luân của họ cho thấy điều đó.
Augustin cũng thấy được sai lầm của phái Tân Hàn Lâm; những người này cho rằng
không thể biết chân lý cách chắc chắn, và họ chủ trương “thuyết cái nhiên”
(probabilisme): có lẽ họ biết được chân lý!
b. Cần ơn soi sáng để nhận
biết chân lý
Cần ơn soi sáng để nhận biết chân lý[30].
Điều này không muốn nói, lý trí không có khả năng biết chân lý. Lý trí có khả
năng nhận biết chân lý vĩnh cửu, nhưng cần có sự trợ giúp bởi ánh sáng từ trên.
Sẽ hiểu rõ hơn về lý thuyết ơn soi
sáng, nếu nhìn và so sánh với quan niệm của Augustin về ân sủng và tự do: con
người với nguyên tội vẫn còn tự do nhưng phần nào đã bị lòng tham dục khống
chế; ân sủng của Thiên Chúa vẫn cần để con người làm điều thiện, chứ không phải
con người có khả năng hành thiện độc lập với Thiên Chúa như Pélage chủ trương,
hoặc con người chủ động hành thiện trước và ân sủng của Thiên Chúa trợ giúp sau
như nhóm Semipélagianisme chủ trương.
Lý trí cần ơn soi sáng để nhận biết
chân lý[31],
nhưng lý trí không “chỉ có nhiệm vụ thứ yếu và có tính chuẩn bị trong việc nhận
biết chân lý như F-J. Thonnard chủ trương[32].
Nếu giải thích lý trí chỉ có nhiệm vụ thứ yếu trong việc nhận biết chân lý, e
rằng chúng ta hiểu sai tư tưởng của Augustin, vì như vậy trái với Rm.1, 19-21
và cũng trái với quan niệm về con người của Augustin (con người vẫn còn tự do
để làm điều thiện, và ân sủng không làm giảm giá trị tự do của con người).
Tương tự như ánh sáng cần để thị
giác có thể nhận ra những vật hữu hình, thì ơn soi sáng cũng cần để lý trí nhận
ra những chân lý vĩnh cửu. Ánh sáng mặt trời cần để nhận ra những sự vật hữu
hình, nhưng nói như vậy không có nghĩa muốn nói rằng: thị giác chỉ có chức năng
thứ yếu torng việc nhìn thấy sự vật khả giác hữu hình.
Lý thuyết soi sáng, tức lý thuyết về
khả năng của lý trí con người, là lý thuyết nằm trong nhãn quan con người đã
phạm tội. Như vậy, quan điểm cứu độ là quan điểm nền tảng trong cả thần học lẫn
triết học của Augustin. Chính con người sa đọa mới cần ơn cứu độ. Không thể
tách triết học ra khỏi thần học nơi Augustin. Ở đây người ta lại thấy lời dạy
của mẹ thánh Monica thật quan trọng với Augustin; lời dạy này hình thành quan
điểm của Augustin nơi cả triết học lẫn thần học: “Ơn cứu độ chỉ có nơi Đức
Kitô”[33].
Sau bao năm trong mê lầm trong tăm tối, trong khắc khoải tìm kiếm chân lý; cuối
cùng Augustin đã nhận biết chân lý cùng với thực tại cụ thể của con người: con
người với những giới hạn và tham dục.
Lý thuyết “soi sáng” không là lý
thuyết độc lập bàn về khả năng của lý trí con người, nhưng nó diễn tả giới hạn
của con người cụ thể trong việc nhận biết chân lý, và như vậy nó chỉ được hiểu
đúng đắn trong cái nhìn toàn bộ về con người của Augustin. Lý thuyết “soi sáng”
hàm chứa khẳng định có những chân lý hiện hữu độc lập với lý trí con người[34],
và những chân lý vĩnh cửu khách quan này hiện hữu nơi Thiên Chúa, nơi Lời Thiên
Chúa[35].
Ánh sáng soi sáng lý trí này, là ánh
sáng tự nhiên (xét như linh hồn theo bản tính quy hướng về nhận biết chân lý)[36],
là ánh sáng đặc biệt phân biệt với ánh sáng riêng của trí khôn[37],
là chính Thiên Chúa[38].
Ánh sáng, nhờ đó lý trí nhận biết chân lý, là chính trí năng tác động theo
Thomas[39].
Ánh sáng này, theo Thomas, tuy không do linh hồn sở hữu như tự linh hồn có vẫn
ở nơi linh hồn, làm một với linh hồn. Còn đối với Augustin, ánh sáng này linh
hồn nhận được từ trên, từ Thiên Chúa[40].
c. Nội dung mặc khải
Chân lý ở trên lý trí con người, là
thực tại độc lập với lý trí con người. Chính vì vậy, lý trí con người cần ơn
soi sáng để nhận biết chân lý vĩnh cửu. Và cũng chính vì vậy, con người cần một
uy quyền tách biệt với lý trí để giúp lý trí con người nhận biết chân lý vĩnh
cửu, đó là Kinh Thánh và Hội Thánh[41].
Thiên Chúa là chân lý thực hữu, là
chân lý của mọi chân lý, là Đấng cứu độ con người qua Đức Kitô, là Đấng soi
sáng, để linh hồn con người nhận biết chân lý vĩnh cửu, là Đấng yêu thương luôn
ban ân sủng giúp con người hành thiện. Con người là tạo vật sa ngã bị thương
tổn, được cứu độ qua ơn soi sáng để nhận biết chân lý vĩnh cửu, qua ân sủng và
đặc biệt qua Đức Yêsu Kitô như Lời Thiên Chúa, Đấng vừa là Đường, vừa là sự
thật, vừa là Sự sống.
Với kinh nghiệm sống của bản thân,
Augustin không đề cao lý trí như một khả năng tuyệt đối mà các nhà duy lý đã
làm sau này. Trái lại, thánh nhân đề cao Đức Kitô như Lời Thiên Chúa sở hữu mọi
chân lý và làm con người hạnh phúc đích thực. Ngài cũng đề cao Hội Thánh như
quyền bính bảo vệ và lưu truyền chân lý. Chính nhờ Hội Thánh và cụ thể qua
thánh giám mục Ambroise, Augustin đã nhận biết chân lý vĩnh cửu.
Bonaventura[42]
không trực tiếp bàn về mặc khải, nhưng cũng bàn về những mặc khải trong lịch sử
cứu độ. Ở đây sẽ tìm biết tư tưởng của ngài về sự cần thiết, chức năng và đặc
tính của mặc khải từ tổng hợp thần học[43].
Với một tín hữu, điều họ tin nhận,
là chân lý. Tương tự như vậy với một triết gia kitô hữu chân thực, điều họ tin
nhận và triết thuyết của họ không thể mâu thuẫn nhau. Trong cái nhìn này, những
điều Bonaventura chấp nhận hoặc vay mượn nơi triết lý của Platon, đối với
Bonaventura, có thể dung hợp hài hòa đối với chân lý đức tin ngài tin nhận.
Cũng trong cái nhìn này, đức tin trở thành chỉ đạo cho lý trí, và chân lý đức
tin trở thành nguyên tắc triết lý.
a. Thuyết ý mẫu
Thuyết ý mẫu (exemplarisme) là cốt
lõi triết thuyết của Bonaventura. Đây là thuyết được gợi hứng bởi tư tưởng của
Platon, cho rằng thế giới khả giác này được giải thích nhờ thông dự vào nguồn ý
niệm[44].
F-J. Thonnard tóm lại lý thuyết căn bản của Bonaventura bằng câu: “Mọi sự đều
khả tri nhờ các ý niệm mẫu của Thiên Chúa”[45].
Lý thuyết ý mẫu nơi Bonaventura hàm
chứa:
·
Hữu thể tối cao đã tạo
dựng vũ trụ nhờ những ý niệm nơi Ngài;
·
Bởi vì vũ trụ thế giới
này được tạo dựng theo ý mẫu nơi Thiên Chúa, nên những hữu thể tạo dựng cũng
giống cũng phản ánh, như những bóng mờ (umbra) hoặc như những dấu vết
(vestigium) hoặc cao hơn nữa là như hình ảnh (imago)[46].
·
Thiên Chúa biết tạo vật
vì những ý niệm ở nơi Thiên Chúa như những ý niệm mẫu của tạo vật; các ý niệm ở
nơi Thiên Chúa, nhưng cũng ở nơi các sự vật, đến độ vũ trụ trong toàn bộ có thể
được coi như sự biểu lộ của nguyên mẫu và sự tốt lành của Thiên Chúa[47].
Các ý niệm mẫu được định nghĩa là “Similitudo rei per quam cognoscitur et
producitur”.
Ý niệm thuộc về tri thức, và tri
thức là sự đồng hóa nào đó, hoặc cái tương tự giữa chủ thể tri thức và đối
tượng tri thức. Bonaventura dùng từ ngữ “diễn tả” (expressio) để chỉ tri thức[48].
Chân lý được định nghĩa là tri thức tuyệt hảo[49],
là hành vi của trí khôn diễn tả sự giống nhau tuyệt hảo giữa trí khôn và sự vật[50].
Bonaventura còn phân biệt tri thức
do trừu xuất và tri thức do ơn soi sáng. Tri thức trong trật tự trừu xuất nhằm
thủ đắc khoa học về những hữu thể bất tất, còn tri thức ở trật tự thị kiến trực
giác có đối tượng là chân lý vĩnh cửu thần linh[51].
Ở đây Bonaventura lấy lại lý thuyết soi sáng của Augustin.
b. Con người- hình ảnh
Thiên Chúa
Vì con người là hình ảnh (imago) của
Thiên Chúa, nên con người có thể biết và yêu Thiên Chúa[52].
Chính bởi ý niệm mà tương quan giữa Thiên Chúa và tạo thành được thiết lập, đến
nỗi “sự tương tự” (similitudo) trở nên nền tảng cho phép đạt tới tri thức chắc
chắn[53].
Theo Bonaventura, mọi tạo vật đều
phản ánh Ba Ngôi: Ngôi Cha như nguồn gốc, ngôi Con như hình ảnh, và Thánh Thần
như dây liên kết (Coll. in Hex. II, 23).
Con người, vì là hình ảnh, có thể
vươn lên và trở về với nguồn gốc của mình. Con người có khả năng đọc quyển sách
là thế giới tạo vật này để nhận biết Thiên Chúa. Nơi con người xét như là hình
ảnh, có một khát vọng tự nhiên trở về với nguyên mẫu, cái mà con người có một
nhận thức nào đó về, nhờ bản chất được tạo dựng của mình[54].
Trật tự tri thức và lịch sử cứu độ
không tách rời khỏi nhau. Lịch sử xét như là lịch sử nhân linh, luôn hướng tới
ơn cứu độ hay sự hư mất như ta thấy trong Kinh Thánh. Bởi tội, con người chuyển
từ tình trạng vô tội và vẹn toàn như thời ở vườn địa đàng đến tình trạng sa
đọa; và chính đức Kitô đã giải phóng con người bằng cách đặt con người dưới
luật ân sủng (III Sent. d. 16, dub. 4).
Tình trạng vô tội nguyên vẹn là sự
hòa hợp hoàn hảo giữa cơ chế hữu thể của con người xét như hình ảnh của Thiên
Chúa với chính cung cách hành xử của con người. Lúc này ý chí và trí khôn nhận
biết mối tương quan đặc biệt giữa con người và nguyên lý của mình; tri thức
trực giác và tri thức trừu xuất về Thiên Chúa trở thành một, đến độ Thiên Chúa
có thể được nhận biết qua các tạo vật như qua một tấm gương không tì ố (I Sent.
d. 3, p. 1, a. un., q. 3). Nhưng ở tình trạng này, tri thức về Thiên Chúa cũng
không tuyệt hảo, vì nó chưa là thị kiến trong vinh quang. Tuy vậy, thế giới
được coi là quyển sách đã mở và có thể đọc được (Brev. II, 12; II Sent, d. 23,
a. 2, q. 3).
c. Kinh Thánh
Tội nguyên tổ đã bẻ gẫy sự hài hòa
giữa Thiên Chúa và con người. Quyển sách tạo thành đã trở thành bị niêm ấn;
tinh thần đã xa lìa Đấng là nền tảng, nguyên lý, mục đích của mình, để hướng
tới các thực tại chóng qua. Hậu quả là bản tính bị sa đọa, tuy vẫn là hình ảnh
(II Sent., proem); nếu ba tài năng của tâm hồn vẫn còn nguyên vẹn, thì tấm
gương của thế giới bên ngoài đã bị lu mờ, và khả năng nhận biết cũng như các sự
vật đã ra tệ (I Sent., d. 3, p. 1, a.un., q. 3). Sau sa ngã không ai có thể từ
các tạo vật trở lại nguồn gốc của mình, vì quyển sách tạo thành đã khép lại;
bởi thế, để có thể trở lại nguồn gốc của mình, vì quyển sách tạo thành đã khép
lại; Bởi thế, để có thể trở về lại với nguồn gốc của mình, cần phải có một
quyển sách mới, hầu thế giới được soi sáng và các ngôn ngữ biểu trưng của tạo
thành có thể được hiểu. Đó là Kinh Thánh (Col. in Hex. XIII, 12).
Các phần của Kinh Thánh có một lịch
sử động, nó bao gồm ba giai đoạn lớn của lịch sử cứu độ: thời luật tự nhiên,
thời luật được chi chép, và sau cùng là thời đại luật ân sủng. Người ta phải
biết ba thời điểm này để hiểu tính chất mầu nhiệm của Kinh Thánh (Col. in Hex.
XV, 20). Ai đi sâu vào mầu nhiệm Kinh Thánh, sẽ nhận ra ý định của Thiên Chúa
trong hành động cứu độ.
Kinh Thánh nhắm biểu lộ ơn cứu độ
trong thời gian và không gian. Kinh Thánh là sức mạnh canh tân nhằm dẫn đưa tạo
thành đến nguồn gốc của nó và mang lại hạnh phúc tròn đầy (Bre., Prol., 2) Tuy
vậy, Kinh Thánh không nhằm đưa con người trở lại tình trạng địa đàng đã mất,
nhưng nó mang lại cái gì mới mà thế gian không thể tự mình làm ra được, vì Kinh
Thánh là tác phẩm của Thiên Chúa, chính Ngài đã dùng các tác giả nhân loại để
viết nên Kinh Thánh (IV Sent., d. 2, a. 2, q. 2, ad.1).
Ở tình trạng đầu tiên, con người
được đặt làm trung tâm của tạo thành; còn bây giờ đức Kitô là trung tâm. Chính
Ngài bây giờ là con đường của tạo thành và con đường chân lý, Ngài là khách lữ
hành, xuất từ Cha và trở về với Cha. Trong Ngài, quyển sách tạo thành được mở
ra; Ngài cũng là người đọc sách với tri thức viên mãn, là Đấng đưa tất cả tạo
thành trở về với tác giả của nó. Như ở nơi Ba Ngôi, Lời Thiên Chúa là Đấng diễn
tả yếu tính của Cha; cũng vậy bây giờ đối với tạo thành, Ngài vừa là người mặc
khải tối cao của Ngôi thứ nhất. Quyển sách nội tâm của Thiên Chúa đã được mở ra
bên ngoài bởi việc nhập thể; quyển sách này có thể đọc và có thể hiểu, bởi vì
nơi quyển sách, nơi người Con này, thâu tóm sự khôn ngoan vĩnh cửu; đến độ
trong Ngài, thế giời này có thể được tái tạo (Brev. 11, 11). Trong Đức Kitô,
hữu thể thâm sâu của Thiên Chúa được khai mở cho thế gian, đến độ bây giờ thế
gian có thể biết và liên kết vói Ngài: đó là ơn cứu độ đã được mầu nhiệm nhập
thể mang lại.
Kinh Thánh là nguồn duy nhất của tri
thức thần học, Kinh Thánh mang lại cho người đọc không chỉ mặc khải, hiểu theo
nghĩa như lời giải thích thế giới và lịch sử, nhưng nó còn có nhiệm vụ thanh
tẩy cùng soi sáng, và đem lại cho người đọc ý nghĩa về Thiên Chúa, điều đã bị
mất bởi tội.
Kinh Thánh phải được đọc trong
truyền thống giáo phụ, vì nếu bị tách khỏi đức tin truyền thống của Hội Thánh,
Kinh Thánh không mang lại tri thức cứu độ (Coll. in Hex. XIX, 10).
Hiểu trong bầu khí này, Bonaventura
chống lại triết học, vì triết học không mang lại những tri thức đóng góp vào
tri thức cứu độ, không có sức tha thứ tội (Vis. III, Coll. 7, n. 6-7; cf. Coll.
in Hex. XIX, 7), vì lý trí nhân loại không có khả năng chứng minh đức tin. Đức
tin dựa trên Kinh Thánh và các phép lạ (Coll. in Hex. XIX, 14).
d. Đức Yêsu Kitô- đường
dẫn đến với Thiên Chúa Cha
Đức Kitô, Đấng nói trong Kinh Thánh,
là nền tảng cố định, là đèn soi lối, và là cửa dẫn vào (fundamentum stabiliens,
lucerna dirigens, et janua introducens). Đức Kitô trở nên nguyên lý soi sáng
trí tuệ. Ngài là nguồn duy nhất của tri thức chân thực, là đường và chân lý, vì
Đức Kitô là Đấng mặc khải Cha. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa được viết trong
Ngài như trong quyển sách sự sống. Trong Ngài ẩn dấu kho tàng khôn ngoan và
hiểu biết[55].
Xét như là đường dẫn tới Cha, Đức
Kitô là Thầy và là nguyên tắc tri thức (những tri thức do đức tin). Không có
Ngài, không ai đạt đến tri thức này, vì bởi việc Ngài đến trong Thánh Linh,
Ngài là nguồn gốc mặc khải, và bởi việc Nhập Thể, Ngài trở thành cột trụ uy
quyền (Sermo sel. de Reb. Theol. IV, n. 2). Xét như là chân lý, Ngài là Thầy
duy nhất, vì nơi Ngài có chân lý vĩnh cửu về đối tượng cần biết và không thể
sai lầm (Op. cit., n. 6). Đức Kitô cũng là mối dây liên kết hai mặc khải chứa
đựng trong hai giao ước, do đó Ngài là nền tảng chân thực của học thuyết nơi
các tiên tri và nơi các tông đồ[56].
Hơn nữa, xét như Lời làm người, Đức Kitô mở cho chúng ta ý nghĩa thâm sâu nhất
của Kinh Thánh, vì Kinh thánh chủ yếu nói về nguồn gốc và tiến trình cứu độ
(Coll. in Hex. III, 2).
Đức Kitô xuất hiện trong Tân ước
dưới dấu chỉ thập giá, do đó tất cả thần học phải là thần học về thập giá:
“Thập giá là quyển sách duy nhất dẫn con người đến sự khôn ngoan đích thực”[57].
Qua Đức Kitô, Thiên Chúa đã nói với
con người. Đức tin là lời đáp trả duy nhất tương ứng với chức vụ trung gian của
Đức Kitô. Tuy vậy nguồn của đức tin không là hành động thuần túy của con người,
nhưng chính trong Đức Kitô và trong Thiên Chúa mà đức tin có nền tảng (Coll. in
Hex. VIII, 2).
Bonaventura cho rằng, đức tin Hội
Thánh tuyên xưng được tìm thấy trong Kinh Thánh, nếu không từng chữ thì ít ra
là trong ý nghĩa[58]. Do đó mọi
khẳng định thần học phải có tương quan chặt chẽ với mặc khải thành văn[59].
Để hiểu Kinh Thánh, cần sự giúp đỡ của truyền thống qua các giáo phụ. Trong
nhãn quan này, các tín khoản tuyên xưng thời các tông đồ có một chỗ đứng rất
quan trọng, vì nó có giá trị như nguyên tắc chỉ đạo và bất biến[60].
Trong nhãn quan này, mặc khải thiết yếu liên hệ tới Hội Thánh giáo huấn.
Khi lược sơ qua tư
tưởng của thánh Bonaventura, người ta nhận ra nỗ lực của Ngài nhằm giải quyết
vấn đề tiềm ẩn: con người có thể biết Thiên Chúa không? con người có thể nhận
mặc khải của Thiên Chúa không? Thánh nhân giải quyết bằng lý thuyết các ý niệm,
có sự liên hệ giữa Thiên Chúa và tạo vật (Umbra, vestigium); riêng con người vì
là hình ảnh của Thiên Chúa, có thể đọc được quyển sách “tạo thành” nói về Thiên
Chúa. Quyển sách này đã bị tội làm đóng lại, và con người không thể đọc được
nữa; thế nên cần một quyển sách khác là Kinh Thánh. Với Đức Kitô, chúng ta nhận
biết về Thiên Chúa dễ dàng hơn và trọn vẹn hơn quyển sách “tạo thành”. Đức Kitô
vừa là phương tiện mặc khải mới và trọn vẹn của Thiên Chúa, nhưng đồng thời
Ngài cũng là đối tượng mặc khải. Ai biết Ngài, là biết Cha, ai thấy Ngài là
thấy Cha; mặc khải đã đạt tới tột đỉnh nơi đức Kitô[61].
Thomas d'Aquin sinh khoảng năm 1225
ở lâu đài Rocca Secca gần Naples tại Ý trong một gia đình công tước. Vào khoảng
năm 1244, ngài vào dòng Đa-minh, nhưng mãi một năm sau, tức khoảng năm 1245,
ngài mới được tự do theo ơn gọi; vào khoảng năm 1252-1259, ngài dạy tại Paris;
khoảng năm 1272-1274, trở về Naples. Ngài chết trên đường đi dự công đồng Lyon
vào ngày 07. 03. 1274[62].
a. Trật tự tự nhiên
Thomas phân biệt rõ trật tự tự nhiên
và trật tự ân sủng. Lý trí có thể nhận biết những chân lý mà không cần nại đến
sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa; và như vậy, triết lý là một khoa học độc
lập[63].
Những gì khả hữu, đều khả tri[64].
Theo Thomas, trong tình trạng tại
thế của con người, đối tượng tương xứng của con người tinh thần là hữu thể trừu
xuất từ sự vật khả giác. Trí năng con người gồm trí năng tác động và trí năng
thụ động; trí năng thụ động cũng còn gọi là trí năng khả thể. Trí năng tác động
trừu xuất những ảnh niệm khả tri từ những ảnh tượng, và từ các ảnh niệm khả tri
này có các ý niệm[65].
Một quan niệm về khả năng tri thức
của con người bao hàm quan niệm về con người. Theo Thomas con người có khả năng
đi từ cái đặc thù đến cái phổ quát, và có khả năng đi từ cái hữu hạn đến cái vô
hạn.
Hiểu con người như trên, nghĩa là
trong trật tự bình thường[66],
con người đã được tạo dựng để hướng tới với Thiên Chúa. Như vậy, con người
trong trật tự tự nhiên, có tri thức về Thiên Chúa, nghĩa là, triết lý có chỗ
riêng của nó, nó có thể được coi là khoa học độc lập với thần học- khoa học đặt
nền trên trật tự đặc biệt, trật tự mặc khải, trật tự siêu nhiên.
b. Mặc khải cần thiết
Nếu lý trí con người ở trật tự bình
thường có khả năng đi từ cái đặc thù để đến cái phổ quát, có khả năng từ cái
hữu hạn lên tới cái vô hạn, có khả năng từ hữu thể khả giác vươn tới thực tại
vô hình siêu việt, thì liệu có cần có mặc khải không? Trong những điều liên
quan đến Thiên Chúa, có nhiều điều vượt quá khả năng của lý trí con người,
chẳng hạn chân lý “Thiên Chúa là một và ba”[67].
Dưới sự hướng dẫn của ánh sáng tự nhiên các triết gia chỉ có thể biết Thiên
Chúa hiện hữu và những phẩm tính tổng quát nơi Thiên Chúa. Lý trí với khả năng
tự nhiên, không có khả năng hiểu thấu đáo Thiên Chúa và bản chất của Ngài, vì
tri thức của con người ở điều kiện tại thế này đều khởi từ giác quan. Những sự
vật khả giác tự bản chất của chúng không thể đưa trí khôn của chúng ta đạt đến
yếu tính thần linh (Contr. Gent. I, c. 3, n.16). Hơn nữa, với khả năng tự nhiên
của lý trí con người vẫn có thể sai lầm về những gì có thể biết được theo khả
năng của nó, nên Thiên Chúa nhân từ cũng mặc khải cả những chân lý tự bản chất
không vượt quá lý trí con người, khi những chân lý này liên quan đến hạnh phúc
con người, ngõ hầu con người được thông phần vào sự nhận thức thần linh (ScG.
I, 4, n. 26). Còn lý do khác cho thấy mặc khải thực sự cần thiết cho con người,
đó là: con người được tạo dựng để hướng về Thiên Chúa. Không có mặc khải, con
người không có thể đạt tới cùng đích đời mình mà Thiên Chúa đã đặt nơi con
người như ơn gọi, như cái cấu thành hữu thể con người[68].
Thiên Chúa đã tạo dựng con người như một hữu thể “quy thần”, như một hữu thể có
thể đối thoại với Thiên Chúa, có thể được Thiên Chúa mặc khải, có khả năng sống
hạnh phúc với Thiên Chúa.
Mặc khải cần thiết, vì chỉ có đức
tin dẫn tới hưởng kiến. Hạnh phúc tuyệt đối của con người hệ tại được hưởng
kiến Thiên Chúa, và con người chỉ có thể đạt được sự hưởng kiến này nếu con
người được Thiên Chúa dạy dỗ như một người thầy dạy học trò (ST., IIa-IIae,
2, 3)[69].
Nói một cách khác, đức tin là điều kiện để được hưởng kiến vĩnh phúc. Con người
được mời gọi, để vượt qua chính mình, vượt qua những gì khả giác, để học ao ước
những gì vượt quá điều kiện của cuộc sống hiện tại (ScG. I, c.5, n.29). Đức tin
thật cần thiết để đạt tới tri thức chân thực hơn về Thiên Chúa, và tri thức này
chỉ được ban cho những ai tin vào Thiên Chúa là Đấng vượt trên cả cái mà người
ta có thể nghĩ về Ngài (ScG. I, c.5, n.30).
Đối tượng vô hình của đức tin được
tỏ lộ đầu tiên cho các thiên thần bằng một thị kiến trực tiếp (per apertam
visionem). Và rồi các thiên thần thông truyền cho một số người nào đó với tất
cả sự chắc chắn do mặc khải thần linh (ScG. III, c. 154, n. 3256 tt). Sự chắc
chắn này có được, là nhờ một ánh sáng thiêng liêng nội tâm, cho thấy điều còn
bị che khuất đối với ánh sáng tự nhiên của lý trí.
Mặc khải không là một đặc ân cá
nhân, chỉ dành cho một số người; trái lại nó dành cho tất cả mọi người; và như
vậy, nó phải trải dài qua thời gian. Và điều này chỉ có thể, nếu mặc khải được
viết ra. Và không chỉ có thể, còn gồm cả việc chú giải các tài liệu mặc khải
cũng như việc hiện tại hóa mặc khải (ScG. III, c.154, n. 3258-3273).
c. Kinh Thánh
Mặc khải xét như lịch sử chỉ có thể
đến với chúng ta trong những quyển sách của hai giao ước, đó là Kinh Thánh.
Kinh Thánh là nền tảng của mọi suy tư thần học, nếu những suy tư thần học này
muốn tựa vào lịch sử.
Theo chứng từ Kinh Thánh, nhân loại
đã trải qua nhiều tình trạng (status): luật cũ rồi luật mới. Tương quan giữa
luật cũ và luật mới cũng tương tự như tương quan giữa cái bất toàn và cái hoàn
hảo. Tất cả lịch sử cứu độ hướng tới đỉnh, là tình trạng đời sống hiện tại
(status praesentis vitae). Nghĩa là, sau nó sẽ không có cái gì mới xét như
thiết yếu nữa; bởi vì không có cái gì gần mục đích cuối cùng hơn cái dẫn trực
tiếp tới mục đích cuối cùng: thời gian ân sủng đã được biểu lộ trong đức Kitô
(ST. Ia-IIae, 106, 4). Mặc dầu giai đoạn cuối cùng của ơn
cứu độ đã được khởi đầu với Đức Kitô, nhưng cái hiện tại vẫn là hình bóng và
bất toàn so với “quê hương” (patria); khi quê hương được đạt đến vào cuối thời
thì cái hiện tại sẽ chấm dứt (ST. Ia-IIae, 106, 4).
Cựu Ước vẫn còn cần thiết, vì nó là
luật chuẩn bị cho Đức Kitô xuất hiện. Mỗi một thời điểm của lịch sử cứu độ
không thể được hiểu như một giai đoạn ở ngoài đối với con người. Chính nhờ thời
điểm cuối cùng này mà bản chất của Cựu Ước được xác định, đến độ con người
không thể được xác định cách đúng đắn nếu không để ý đến tình trạng cuối cùng
này. Tình trạng của nhân loại thay đổi qua thời gian. Và như vậy, đức tin ở mỗi
tình trạng cũng khác nhau theo thời điểm nhưng tính duy nhất của đức tin ở hai
giao ước vẫn được bảo toàn (ST. I-II, 106, 3, ad 2; 107, 1, ad 1; 107, 2).
i. Tiên tri
Thomas cũng bàn đặc biệt đến các
tiên tri của Cựu ước, và cho thấy những hoàn cảnh trong đó mặc khải lịch sử đến
với con người. Nơi các tiên tri, Thiên Chúa đã ban cho các ngài ánh sáng siêu
nhiên để các ngài nhận biết Thiên Chúa; các tiên tri hoàn toàn tùy thuộc vào
Thiên Chúa, và các ngài chỉ nhận được ánh sáng này bao lâu các ngài được ban
cho (De Ver. 11, 1). Người ta có thể hình dung tiến trình này như một cuộc nói
chuyện (quasi quaedam allocutio) hay như việc nghe nói (perceptio divinae
locutionis). Các lời hay các diễn từ của tiên tri được tri thức này hướng dẫn
điều khiển, nhằm xây dựng tha nhân.
Đối tượng của tri thức, là Thiên
Chúa và con người, là những biến cố tương lai, là sáng kiến cứu độ của Thiên
Chúa, là tri thức cần cho con người trong trật tự cứu độ và truyền thông tri
thức này. Yếu tố mô thức của tri thức tiên tri là ánh sáng thần linh; chính ánh
sáng thần linh làm cho các sấm ngôn có tính thống nhất dù đối tượng thay đổi,
dù cách thức lãnh nhận có khác nhau (thị kiến, giấc mơ, hình ảnh) (ST. II-II,
171, 3, ad 3). Yếu tính của lời tiên tri không hệ tại những hình thức diễn tả
nhưng ở nơi ánh sáng được thông truyền. Nơi đây không còn là một tương quan tự
nhiên thầy trò, nhưng chính là ánh sáng siêu nhiên đến soi sáng phán đoán.
Chính nhở ánh sáng này mà các tiên tri có sự chắc chắn tuyệt đối.
Mặc khải tiên tri gồm những mức độ
trọn hảo khác nhau, và cao nhất là sự biểu lộ các chân lý thần linh qua chiêm
ngắm; sự biểu lộ qua chiêm ngắm vượt trên sự biểu lộ bằng hình ảnh được rút ra
từ những sự vật khả giác của thế giới này, bởi vì, biểu lộ qua chiêm ngắm giống
thị kiến hưởng phúc hơn (ST. II-II, 174, 2).
Nơi tri thức tiên tri, các thiên
thần cũng đóng một vai trò nào đó trong mức độ các ngài có thể gợi lên những
thị kiến hình ảnh hoặc củng cố ánh sáng thần linh trong tâm trí con người (De
Ver. 12, 8, ad 4).
Sấm ngôn hướng tới tri thức các chân
lý thần linh. Việc chiêm ngắm các chân lý thần linh. Việc chiêm ngắm các chân
lý này dạy dỗ con người ở bình diện đức tin cũng như ở bình diện hành động. Có
sự tiến bộ về tri thức thần linh trong dòng thời gian. Thời trước lề luật,
Abraham và các tổ phụ cũng được giáo huấn trong tri thức về Thiên Chúa; thời
dưới lề luật, tri thức này mang một hình thức hoàn hảo hơn: chân lý không chỉ
được loan báo cho một số người hay một số gia đình, nhưng cho tất cả một dân
tộc; và rồi dưới thời ân sủng, Con Thiên Chúa đã mặc khải mầu nhiệm Ba ngôi.
ii. Đức Kitô- lữ hành và
phúc nhân
Đức Kitô tới đánh dấu điểm dứt của
sấm ngôn[70]. Ngài là
Đấng mặc khải, là phúc nhân và lữ hành (comprehensor et viator), Ngài nối kết
thần linh và con người, Ngài mang lại cho con người tri thức tối hậu về Cha,
Ngài thay thế sấm ngôn của giao ước cũ. Nơi Ngài, mọi ân sủng được ban cách
hoàn hảo nhất (ST. III, 7, 7). Ngài có thể thông truyền cho thế gian trọn vẹn
chân lý và toàn thể đặc sủng. Chính Ngài đã linh ứng các tiên tri trước Ngài,
và cả các thiên thần nữa; bởi vì mọi tri thức đều do việc tham dự vào Lời Thiên
Chúa (Sup. Jo., c. VI, lect. 2, n.868).
Đức Kitô là vị tiên tri tuyệt đối,
hiểu như là người “thị kiến” và “thông truyền”[71],
bởi vì Ngài đã loan báo các chân lý về Thiên Chúa (Sup. Jo., c. IV, lect. 6, n.
667). Bản án trên thập giá được viết bằng ba ngôn ngữ, điều này hàm chứa đặt
mọi khoa học dưới sự vâng phục của Ngài, và mọi tri thức tuyệt đối đã được mặc
khải trong đức Kitô (Sup. Jo., c. XIX, lect. 4, n. 2422).
Chức năng mặc khải của Đức Kitô ít
được bàn trong những tác phẩm chính của Thomas, nhưng điều này không có nghĩa
nó không có trong tư tưởng của Ngài. Trong phần dẫn nhập của tổng luận thần học
phần thứ ba, ngài viết: “Salvator noster Dominus Jesus Christus... viam
veritatim nobis in seipso demonstravit, per quam ad beatitudinem immortalis
vitae resurgendo pervenire possimus...” Đó là nội dung và mục đích của mặc khải
được thực hiện nơi Đức Kitô. Ngài cho chúng ta thấy rằng: chính con người Ngài
là đường chân lý, qua ngài chúng ta đến với Chúa Cha. Sự xuất hiện của Ngài như
một người giữa chúng ta, chưa là kết điểm của hoạt động thần linh; như vậy
chúng ta không được ngơi nghỉ trong nhân tính của Ngài, nhưng chúng ta phải
hướng về Chúa Cha qua nhân tính của Ngài[72].
Như Lời Thiên Chúa, Đức Kitô là chân
lý. Và như vậy, tất cả mọi người muốn biết chân lý phải gắn bó với Ngài. Đồng
thời, Ngài cũng là sự sống, đến độ, Ngài có thể giới thiệu mình như là đường
dẫn tới đích điểm, vì trong Ngài tìm thấy mọi điều đáng ao ước (Sup. Jo., c.
XIV, lect. 2, n. 1869).
Nhập thể cần thiết, vì việc nhập thể
của Con Thiên Chúa giúp con người đạt đến cùng đích một cách chắc chắn hơn và
thích hợp hơn. Bởi việc nhập thể của Đức Kitô, đức tin của chúng ta đạt tới sự
chắc chắn; vì nơi con người Đức Kitô, chính Thiên Chúa nói với chúng ta cách
trực tiếp, không qua trung gian. Niềm hy vọng của chúng ta cũng được củng cố,
vì không có gì cho thấy rõ hơn tình yêu của Thiên Chúa đối với con người qua
việc Con của Ngài đến ở giữa con người.
Mặc khải là một chứng từ tình yêu,
để chúng ta có thể đáp trả bằng một tình yêu. Hơn nữa, Lời làm người cho chúng
ta một tấm gương “ad rectam operationem”, bởi vì hoàn toàn như một người, hầu
con người có thể thấy Ngài và bắt chước. Việc nhập thể biểu lộ sự tham dự hoàn
toàn thần tính (plene participatio deitatis); sự tham dự thần tính này là mục
đích và hạnh phúc của con người (ST. II, 1, 2).
Tất cả đời sống trần thế của Đức
Kitô đối với chúng ta là một mầu nhiệm, mầu nhiệm cứu độ. Và điểm cuối của mầu
nhiệm này là sự phục sinh của Người. Thomas cho rằng mầu nhiệm phục sinh nhằm
“bảo đảm sự công chính thần linh, giáo dục đức tin của chúng ta, nâng cao lòng
trông cậy; huấn luyện đời sống tín hữu, bổ túc ơn cứu độ chúng ta”[73].
Moiï ân sủng được ban cho con người
nhờ Đức Kitô. Đức Kitô, hội tụ mọi ân sủng, xét như Ngài là vị thầy đầu tiên và
chủ yếu của chúng ta (ST. III, 7, 7).
Nhập thể nhằm rao giảng chân lý (ST.
III, 40, 1). Sự rao giảng này là một mặc khải của ngôi Cha, có kết quả là giải
phóng chúng ta khỏi tội, đồng thời cho phép chúng ta lại gần Thiên Chúa (Sup.
Jo., c. I, lect. 11, n. 221).
Ngày xưa người Con duy nhất đã thông
truyền tri thức về Thiên Chúa qua các tiên tri, tức những người đã được tham dự
vào Lời Vĩnh Cửu. Còn bây giờ trong giao ước, không cần nại đến trung gian vì
sứ điệp đã vang vọng trong chính ngôi vị Thiên Chúa. Như vậy, chúng ta có một
giáo lý vượt trên tất cả mọi giáo lý về địa vị, về sự đáng tin, và về việc sử
dụng. Đối tượng quan trọng nhất của sứ điệp này là: Thiên Chúa một và ba. Sứ
điệp này không có tiên tri nào có thể nói tới, ngay cả Môsê (Sup. Jo, c. I,
lect. XI, n. 221). Bởi nhập thể, Thiên Chúa đã có thể nói trực tiếp với chúng
ta, để chúng ta có thể nghe Lời Thiên Chúa (Sup. Jo. c. VIII, lect. 3, n.
1138).
Khi Đức Kitô tỏ lộ Ngài như chân lý,
Ngài chuẩn bị vương quốc của Ngài. Vương quốc này chủ yếu tựa trên việc mặc
khải chân lý, đến độ trong vương quốc này chỉ có sự khôn ngoan nhân loại trong
mức độ sự khôn ngoan này đến tự Ngài (Sup. Jo., c. XVII, lect.6, n.2267). Khi
chân lý mặc khải không còn liên kết với ngôi vị Đức Kitô tỏ hiện nơi thân xác
nữa, thì những người đến sau Đức Kitô chỉ có một lối gián tiếp đến với chân lý
này. Tuy vậy lời mời gọi vẫn còn. Trong suốt dòng thời gian, lời rao giảng luôn
gắn liền với mặc khải duy nhất, bởi vì chính Thiên Chúa dùng phương tiện lời
rao giảng để nói với con người (De Ver. 18, 3).
Để con người có thể tin vào sứ điệp
của Lời rao giảng, lời rao giảng có thể được củng cố bởi những phép lạ, cho
thấy lời rao giảng này có nguồn gốc thần linh (ST. II-II, 2, 1, ad 1). Có hai
điều kiện để tin: một là việc trình bày giáo lý đức tin, hai là phép lạ và xác
tín của người rao giảng (như nguyên nhân bên ngoài của đức tin). Sự thuận tình
(assensus) đến sau đó, là công trình của Thiên Chúa tác động thâm sâu do ân
sủng (ST. II-II, 6, 1). Tuy phép lạ và những điều bên ngoài khác cũng đóng góp
vào việc phát sinh đức tin, nhưng thánh Thomas không cho đó là điều tối hệ
trọng. Điều quan trọng là “sự thúc đẩy của đức tin” (instinctus fidei). Bằng
lời mời gọi thâm sâu này, con người khai mở với Tin Mừng và với Thiên Chúa;
chính Thiên Chúa dẫn con người tới sự thuận tình tin[74].
Tiếng gọi nội tâm mà Thiên Chúa ngỏ với
con người nhờ Đức Yêsu Kitô trong Thánh Thần này, là một lời mời gọi tùng phục
ơn cứu độ, trong việc vâng phục lời rao giảng (Quodl. II, q. 4, 1, ad 3; Sup.
Jo., c. XIV, lect. 6, n. 1958).
Chân lý mặc khải đầu tiên ở nơi giáo
lý của Đức Kitô, và sau đó ở nơi các tiên tri và các tông đồ. Các ngài là những
người được thông truyền mặc khải cách trực tiếp; còn với những người khác, mặc
khải được thông truyền qua lời rao giảng (ST. II-II, 6, 1; 1, 10, ad 1; II-II,
174, 6). Do đó, đức tin của kitô-hữu hôm nay tựa trên những quyển sách quy
chuẩn mà các ngài đã biên soạn[75].
Vậy Kinh Thánh có một vị thế duy nhất, nghĩa là nhờ Kinh Thánh mà kitô-hữu nhận
được điều mà Thiên Chúa muốn thông truyền cho về chính Ngài, đến độ Kinh Thánh
cung cấp cho đức tin và cho thần học những luận chứng cần thiết mà không một
nguồn nào có thể mang lại.
iii. Huấn quyền và Kinh
Thánh
Các tác giả Kinh Thánh nhận một
chứng từ thần linh chứng thực bằng những phép lạ; những phép lạ này giúp các
ngài thoát khỏi nghi ngờ và những sai lầm. Vì thế, các ngài là những bảo đảm
của chân lý mặc khải; đến nỗi kitô-hữu chỉ phải tin vào các vị kế nhiệm các
tông đồ, trong mức độ lời rao giảng của các vị này ăn khớp với những điều các
tông đồ đã kể lại qua những bản viết của các ngài. Lãnh vực mặc khải trải rộng
với nội dung Kinh Thánh (De Ver. 14, 10, ad 11).
Giáo huấn của Giáo Hội không được đi
quá điều đã được nói trong Kinh Thánh. Với những vấn đề thuộc tín lý theo nghĩa
riêng, Kinh Thánh được coi là đủ. Tất cả những gì bắt nguồn từ ý định Thiên Chúa
mà lại vượt quá những đòi hỏi tự nhiên thì đã được mặc khải trong Kinh Thánh
(ST. III, 1, 3). Một cách tổng quát, đối với những gì liên hệ đến cái siêu
nhiên, kitô-hữu không bao giờ được nói hay nghĩ rằng điều đó không được “diễn
tả” trong Kinh Thánh (In de div. nom., c.1, lect.1). Vì chính bởi Kinh Thánh mà
kitô-hữu lãnh nhận mặc khải của Thiên Chúa về chính Ngài, vậy những gì được
chứa đựng trong Kinh Thánh phải được coi là “quy chuẩn tuyệt hảo của đức tin”
(optima regula fidei), nên không được thêm hoặc bớt gì vào Kinh Thánh.
Kinh Thánh là quy chuẩn đức tin.
Những sự khác phải tùng phục hòa hợp với quy chuẩn này, kể cả truyền thống các
giáo phụ (ST. II-II, 1, 9 arg. 1; III Sent., d. 25, q.2, a.2, qcl.4 arg. 3).
Mục đích Kinh Thánh là giáo huấn con
người; các giáo phụ cũng như truyền thống chú giải đều đóng góp vào mục đích
này. Về tương quan giữa Kinh Thánh và việc giải thích, Thánh Thần như mắt xích
nối kết hai điều này. Thánh Thần có nhiệm vụ chính trong việc khai sinh các tài
liệu này, và Ngài cũng có nhiệm vụ tương tự trong việc giải thích các tài liệu
này trong dòng thời gian (Quodl., XII, q. 17, a. un). Đây là điều phải giả
thiết khi nói Giáo Hội là quy chuẩn không sai lầm (regula infallibilis).
Kho tàng đức tin đã được xác định
ngay thời các tông đồ; tuy nhiên kho tàng này phải được làm rõ trong Giáo Hội;
các quyết định của Giáo Hội được Thiên Chúa soi sáng là quy chuẩn, và cấu thành
lời giải thích chân thực về Kinh Thánh (ST. II-II, 2, 6). Như vậy giáo lý của
Giáo Hội (doctrina Ecclesiae) trở thành quy luật không sai lầm (regula
infallibilis), bởi vì đối tượng mô thể của đức tin là chân lý thứ nhất, đã tự
tỏ lộ trong Kinh Thánh và trong giáo lý của Giáo Hội[76].
Như vậy, việc giải thích Kinh Thánh gắn liền với uy quyền của Giáo Hội; đức tin
của Giáo Hội luôn quy chiếu vào Kinh Thánh như nền tảng, bởi vì chỉ có tác giả
Kinh Thánh mới nhận được mặc khải trực tiếp[77]. Giữa giáo lý của Giáo Hội và Kinh Thánh có
một sự duy nhất, bởi vì Giáo Hội không có quyền đi qúa những gì đã được thiết
lập trong các sách quy chuẩn (ST. II-II, 5, 3, ad 2; Quodl. III, q. 4, a.10).
Giáo Hội, được Thánh Thần chân lý hướng dẫn, không thể rơi vào sai lầm[78];
và trong những vấn đề tranh cãi, quyết định cuối cùng thuộc về giáo hoàng, vì
ngài được trao phó việc trình bày kinh tin (Credo) cho mọi người, và các tín
hữu phải vâng phục[79].
Vào thế kỷ XVI, mặc khải là một vấn
đề được nhiều người bàn cãi. Do ảnh hưởng của những anh em Tin Lành, có những
quan niệm và chủ trương sai lầm về giáo lý mặc khải. Để cải chính lại những sai
lầm và để bảo toàn nguyên vẹn đức tin công giáo, quyền bính Giáo Hội nơi công
đồng Trêntô đã can thiệp và trình bày giáo thuyết công giáo về mặc khải.
a. Bối cảnh
Trước khi xem ý kiến công đồng
Trento về mặc khải, hãy tự đặt mình vào bầu khí tư tưởng của thời đó, cụ thể là
quan niệm về mặc khải của phong trào cải cách.
Phong trào cải cách tôn giáo được
Martin Luther khởi xướng[80],
và được nhiều người hưởng ứng. Những tư tưởng gia nổi tiếng của phong trào cải
cách này là: Jean Calvin (1509-1564), Mélanchton (1497-1560), Zwingli
(1484-1531)...
i. Giáo lý của những anh
em Tin Lành
Martin Luther nghiên cứu nhiều về
Kinh Thánh và khi nghiên cứu thư của thánh Phaolô viết cho tín hữu Roma, ông bị
đánh động đặc biệt bởi tư tưởng “bởi tin vào Đức Yêsu mà chúng ta được cứu độ,
chứ không phải bởi việc làm” (Rm. 3, 22.28). Năm 1517, ông viết 95 luận đề
chống lại giám mục Magdebourg là Albert de Brandebourg về vấn đề lạm dụng “ân
xá”. Và chính khởi từ biến cố này, đã có nhiều biến cố tiếp theo đẩy Luther dần
dần xa lìa đức tin công giáo: phủ nhận quyền bính của giáo hoàng và chỉ tin vào
Kinh Thánh (sola Scriptura)[81].
Thiên Chúa đã mặc khải cho con người
qua các tạo vật; nhưng từ khi con người phạm tội, lý trí con người đã hư hỏng;
và như vậy, việc mặc khải qua các tạo vật thật là vô dụng đối với con người
ngày nay[82].
Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Kinh
Thánh, nên từ nay con đường đi đến với Thiên Chúa đã được tỏ lộ trong Kinh
Thánh, Kinh thánh dạy mọi sự cần thiết cho đức tin để được cứu độ[83].
Vì thế không cần đến truyền thống như một nguồn bổ túc.
Quy chuẩn đức tin là chính Kinh
Thánh với sự giúp đỡ của Thánh Thần; Thánh Thần soi sáng tâm hồn mỗi người,
giúp con người hiểu được những gì Thiên Chúa muốn mặc khải và con người phải
tin[84].
ii. Nhận xét về lập trường
của anh em Tin Lành
Với cái nhìn đầu tiên, người ta
tưởng rằng anh em Tin Lành đề cao tính siêu việt của mặc khải, khi họ xóa bỏ
mọi trung gian giữa Lời Chúa và người tiếp nhận, nhưng thực sự không phải như
vậy! Khi phủ nhận trung gian giữa Lời Chúa và tâm hồn người tiếp nhận, anh em
Tin Lành phủ nhận truyền thống được thể hiện nơi huấn quyền của Hội Thánh trong
suốt dòng lịch sử, cũng như trong quyết định hiện tại để giải thích Lời Chúa.
Như vậy, lý thuyết này dễ dẫn tới giải thích Kinh Thánh tùy ý, chỉ theo tiêu
chuẩn là chính mình (cá nhân và chủ quan), hoặc chỉ theo những điều lý trí thấy
đúng mà thôi (duy lý).
b. Giáo huấn công đồng
Trentô
Công đồng Trentô được đức giáo hoàng
Phaolô III triệu tập năm 1545, nhằm canh tân Giáo Hội và chấn chỉnh những chủ
trương sai lầm do ảnh hưởng của phong trào “thệ phản[85]”
Trong sắc lệnh Sacrosancta
Oecumenica biểu quyết vào ngày 08.04.1546 tại khóa họp thứ IV, công đồng đã bàn
đến vấn đề sách thánh và truyền thống (cf. DS. 1501 tt).
Công đồng nhấn mạnh đến từ ngữ “Tin
Mừng”, từ ngữ đã được đức Yêsu dùng để chỉ sứ điệp cứu độ. Đức Yêsu đã sai các
tông đồ đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Tin Mừng này đã được ban cho chúng
ta cách tiệm tiến: đầu tiên được hứa qua các tiên tri trong Kinh Thánh, sau đó
được chính Đức Yêsu Kitô Con Thiên Chúa loan báo, và rồi các tông đồ rao giảng
theo lệnh của Ngài cho mọi tạo vật. Chân lý cứu độ và luật luân lý, chứa đựng
trong các sách được linh hứng và trong truyền thống bất thành văn. Các chân lý
này có Tin Mừng là nguồn duy nhất.
Với cùng một lòng kính trọng và thảo
hiếu, công đồng tiếp nhận cả Kinh Thánh lẫn truyền thống khởi từ miệng Đức Kitô
hay được đọc bởi chính Thánh Thần và được duy trì trong Hội Thánh công giáo nhờ
bởi kế tục.
Trong phần dẫn nhập sắc lệnh “công
chính hóa”, công đồng đề cập đến giáo lý đã được Đức Yêsu dạy dỗ, các tông đồ
truyền lại và Hội Thánh gìn giữ; công đồng không cho phép bất cứ ai tin hoặc
rao giảng khác với điều đã được công đồng xác định và tuyên bố trong sắc lệnh
này (DS. 1520). Cần lưu ý từ ngữ đã được công đồng dùng ở đây: dạy dỗ, truyền
lại, gìn giữ[86]; không thể
tách mặc khải, dù thành văn hay bất thành văn, ra khỏi cơ cấu bộ ba này.
Công đồng Trentô tuy không dùng chữ
“mặc khải” nhưng công đồng đã trình bày mặc khải như nội dung được rao giảng.
Một cách cụ thể, mặc khải này là Tin Mừng đã được hứa qua các tiên tri, được
công bố bởi đức Kitô, được rao giảng bởi các tông đồ, và được truyền lại cho
Hội Thánh duy trì và bảo vệ. Tin Mừng này cũng được gọi là giáo lý, được dạy và
được truyền. Giáo lý cứu độ này gồm các chân lý và các lời hứa, đã được rao
giảng cho những người tin, và được lưu chuyển nhờ Kinh Thánh và truyền thống[87].
Dưới một góc cạnh nào đó, công đồng
Trentô đồng hóa mặc khải với Đức Kitô và với thực tại được rao giảng, và cuối
cùng là với các chân lý chứa đựng trong Kinh Thánh và trong truyền thống.
Vatican I (08.12.1869-20.10.1870),
là công đồng đầu tiên bàn về mặc khải. Để hiểu sâu xa giáo lý của công đồng,
cần tìm hiểu những quan niệm về mặc khải của thời đó.
a. Bối cảnh
Sau công đồng Trentô, mặc khải là
vấn đề sôi bỏng đối với anh em tin lành; và như vậy, mặc khải cũng là vấn đề
được các thần học gia công giáo lưu ý. Những người theo thần giáo (Deism) cho
rằng có Thiên Chúa nhưng không cần mặc khải; lý trí con người có khả năng nhận
biết chân lý, ngay cả những chân lý về bản tính Thiên Chúa.
i. Một vài tác giả tin
lành và thần giáo
Benedict Spinoza
(1632-1677) chủ trương chỉ có lý trí có thẩm quyền trong lãnh vực chân lý; mặc
khải chỉ liên quan đến sự vâng phục và đạo đức; thần học chỉ nên gồm những định
tín về đức tin phải vâng phục và để cho lý trí xác định cách chính xác những
chân lý phải được hiểu thế nào. Mặc khải theo Spinoza, không thêm gì cho điều
có thể được lý trí biết[88].
John Locke (1632-1704),
trong tác phẩm Essay concerning Human Understanding xuất bản vào năm 1700, cho
rằng lý trí là mặc khải tự nhiên, ở đó Cha Vĩnh Cửu của ánh sáng và là nguồn
của mọi điều hiểu biết thông truyền cho nhân loại một phần sự thật mà Ngài đã
để lại trong tầm với của khả năng tự nhiên của con người. Mặc khải là lý trí tự
nhiên được nới rộng bởi những khám phá.
Những khám phá ở đây là gì? John
Loke cho rằng đây là những điều có thể biết được bởi những người khôn ngoan,
còn những người không có học không thể biết được[89].
Gotthold Ephraim
Lessing (1729-1781) xác tín rằng chỉ có một tôn giáo đích thực, đó là tôn giáo
tự nhiên, tôn giáo nằm trong phạm vi của lý trí con người.
Lessing cho rằng, mặc khải thì chân
thực và có giá trị như một phương pháp giáo dục con người trong những điều chưa
được lý trí khám phá ra. Vì tiến trình giáo dục này không bao giờ chấm dứt nên
theo Lessing, nếu kitô giáo được thanh tẩy khỏi những yếu tố phi lý và mầu
nhiệm, thì kitô giáo sẽ là tôn giáo gần nhất với tôn giáo tự nhiên.
Theo Lessing, chứng từ tốt nhất của
kitô giáo là cái biết Thiên Chúa bằng kinh nghiệm cá nhân. Đây là điều Lessing
gọi là “chứng từ của Thánh Thần và của quyền năng” (cf. 1Cor. 2, 4); ông đã
dùng từ ngữ trên để đề tựa một bài suy ngắm. Chân lý thâm sâu của kitô giáo hệ
tại sự kiện: mặc khải nói trực tiếp với lòng chúng ta và với sự chắc chắn cho
chúng ta[90].
Emmanuel Kant
(1724-1804) cũng đồng quan niệm với Lessing về tri thức lịch sử, nhưng Kant ý
thức giới hạn của lý trí con người. Kant cho rằng, lý trí thuần lý (pure
reason) không thể chứng minh sự hiện hữu của những thực tại siêu việt; tuy vậy,
những ý niệm của lý trí thuần lý này như linh hồn, tự do, và Thiên Chúa, là nền
tảng không thể thiếu được cho luân lý và tôn giáo.
Trong hệ thống triết lý của Kant,
người ta không tìm thấy chỗ đứng cho mặc khải hiểu theo nghĩa truyền thống kitô
giáo.
Nền luân lý của Kant độc lập với mọi
nền siêu hình có trước. Kant khẳng định trong Foundations of a Metaphysics of
Morals: lý trí thực tiễn trong việc đáp trả những đòi buộc luân lý, mở đường đi
tới đức tin tôn giáo. Nếu một người tin rằng họ được một vị thần linh hướng
dẫn, thì người đó dễ dàng hòa hợp hành động của họ với đòi hỏi của mệnh lệnh
tuyệt đối (categorical imperative). Như vậy, mệnh lệnh của lý trí thực tiễn
tương đương với mặc khải thần linh[91].
Friedrich D. E.
Schleiermacher (1768-1834) lớn lên trong bầu khí sùng tín (pietism). Ông đặt
nền tảng triết lý về tôn giáo không trên lý trí thuần túy nhưng trên tình cảm
của con tim (Gefuehl).
Schleiermacher cho rằng con người
trong dòng kinh nghiệm hoặc trong những kinh nghiệm tình cờ, nhận thấy mình tùy
thuộc hoàn toàn vào cái bất biến, cần thiết, vô hạn. Tình cảm lệ thuộc tuyệt
đối này được Schleiermacher coi như tôn giáo. Tình cảm này làm nổi lên ý tưởng
Thiên Chúa. Mỗi một sự thông truyền của vũ
trụ cho con người đều là mặc khải[92].
Triết gia Đan Mạch
Soeren Kierkeggard (1813-1855) cho rằng, các chân lý mặc khải thuộc bình diện
hiện sinh.
Mặc khải kitô giáo không thích hợp
với triết lý và khoa học, vì mặc khải thực nghịch lý. Mặc khải đòi sự chấp nhận
hiện sinh bằng niềm tin mù quáng. Với Kierkeggard, mặc khải hàm chứa uy quyền
và có vẻ mâu thuẫn dị kỳ đối với lý trí; thế nhưng, không phải vì vậy mà không
thể chấp nhận được.
Có sự trái ngược giữa mặc khải và
phương pháp “dạy kiểu của Socrate”. Bởi vì trong phương pháp của Socrate, học
trò đã có và chỉ cần giúp đỡ để học trò có thể chấp nhận ra chân lý, vị thầy
không phải là người luôn luôn cần; còn đối với mặc khải, học trò phải gắn bó
thiết thân với vị thầy.
Vì đối tượng của đức tin là Mâu Thuẫn Vĩnh Cửu Đã Làm Người, thế
nên đức tin không đơn thuần hoàn toàn là cái thuộc lý trí và ý muốn[93].
Georg W. F. Hegel
(1770-1831) đặt nghệ thuật, tôn giáo, và triết lý trong tiến trình biện chứng.
Tinh thần tuyệt đối là mút cùng của tiến bộ.
Mặc khải đối với Hegel là tạm thời
(tiền triết lý), là sự tỏ lộ tạm thời của tinh thần tuyệt đối trong lịch sử,
chứ mặc khải không là sự can thiệp tự do của Thiên Chúa hiện hữu trong lịch sử.
Đức tin dưới lý trí, và tôn giáo dưới triết lý[94].
ii. Vài tác giả bên Công
Giáo
Duy lý hoặc duy tín, đó
là hai lập trường thái cực mà anh em Tin Lành dễ rơi vào; Còn đối với bên Công
giáo, lập trường duy tín cũng bắt đầu xâm nhập do ảnh hưởng triết lý của Kant
và Schleiermacher. Lập trường này chủ trương đức tin siêu nhiên tuyệt đối cần
thiết để con người nhận thấy những chân lý tự nhiên của tôn giáo, chẳng hạn, sự
hiện hữu và những phẩm tính của Thiên Chúa, linh hồn bất tử, các luật luân
lý...
Louis-Eugène Bautain
(1796-1867) là giáo sư đại học Strabourg. Do ảnh hưởng của Kant và kinh nghiệm
bản thân cùng những lý do tông đồ, Bautain đã đi tới kết luận “đức tin là nguồn
mọi nhận thức tôn giáo và luân lý”. Ông cho rằng, sự nhận thức tự nhiên không
thể nhận ra sự hiện hữu của Thiên Chúa.
Giám mục Strabourg là De Trévern đã
kết án lập trường của Bautain năm 1834. Những mệnh đề Bautain phải tuyên xưng
được ghi lại năm 1840:
·
Suy luận có thể chứng
minh sự hiện hữu của Thiên Chúa và những phẩm tính trọn hảo của Ngài;
·
Đức tin giả sử đã có
mặc khải;
·
Đức tin không thể được
viện dẫn như một lý chứng về sự hiện hữu của Thiên Chúa đối với người vô thần
(DS. 2751);
·
Dù bị yếu và lu mờ bởi tội
nguyên tổ, lý trí vẫn còn đủ sáng suốt và sức mạnh để nhận ra sự hiện hữu của
Thiên Chúa một cách chắc chắn, nhận ra mặc khải được tỏ lộ cho người Do Thái
qua Môsê và tỏ lộ cho kitô hữu qua Đức Yêsu Kitô (DS. 2756).
Vào năm 1844, Bautain phải ký nhận không
dạy một số điều, tựu trung là phải tôn trọng lý trí (DS. 2765-2769).
Sau Louis-Eugène
Bautain, Augustin Bonnetty (+1879) cũng rơi vào sai lầm tương tự: quá đề cao
mặc khải và phủ nhận giá trị của lý trí.
Một số người công giáo
khác lại rơi vào sai lầm ngược lại: quá đề cao lý trí và không phân biệt cái
biết theo lý trí với cái biết theo đức tin nhờ mặc khải; chẳng hạn như nơi
Georg Hermes (1775-1831) và Anton Guenther (1783-1863)...
iii. Huấn quyền
Đức Piô IX, vào năm
1846, đã ra một thông điệp nhằm giải quyết dứt khoát vấn đề tương quan giữa lý
trí và đức tin. Thông điệp Qui Pluribus này khẳng định:
·
nhiệm vụ của lý trí
nhân loại là dẫn tới mặc khải,
·
lý trí phải suy phục
mặc khải nơi Lời Chúa,
·
không có sự đối nghịch
hoặc mâu thuẫn giữa đức tin và lý trí, vì cả hai đều từ Thiên Chúa duy nhất
(DS. 2775-2786).
Đức Giáo Hoàng Piô IX, vào năm 1864,
đã đưa ra một sưu tập những sai lầm về các vấn đề của thời đó, kể cả những sai
lầm của những người theo thuyết duy lý quá đề cao lý trí (DS. 2903-2909).
b. Công đồng Vatican I
Công đồng chung Vatican I đã được
Đức Giáo Hoàng Piô IX triệu tập, và nhóm phiên đầu tiên vào ngày 08.12.1869.
Đây là công đồng chung đầu tiên bàn trực tiếp và rõ ràng về mặc khải trong hiến
chế tín lý Dei Filius.
Những sai lầm thời trước công đồng
chung Vatican I đang hoành hành:
·
Luther chủ trương, lý
trí sau khi con người phạm tội đã bị hủy hoại, không còn khả năng nhận biết
chân lý!
·
Tự nhiên thần giáo
(Deism) rất thịnh hành ở Anh quốc quá đề cao lý trí (như một phản ứng lại chủ
trương coi thường lý trí nơi những người Tin lành).
·
Sang thế kỷ XVIII,
phong trào triết lý ánh sáng xuất hiện và phát triển mạnh; lý trí được đề cao
tuyệt đối và dẫn tới phủ nhận tri thức thuộc trật tự khác- đức tin với lãnh vực
chân lý siêu nhiên được mặc khải. Phong trào duy lý này cực thịnh ở Đức vào thế
kỷ XVIII và lan dần sang các nước lân cận.
·
Ở Pháp vào thế kỷ XIX,
xuất hiện những thần học gia công giáo chịu ảnh hưởng bởi thuyết duy lý, quá đề
cao lý trí và không hiểu mặc khải nguyên tuyền như truyền thống vẫn dạy. Họ vẫn
dùng từ ngữ mặc khải, nhưng nội dung không còn là mặc khải nữa.
·
Phản ứng chống lại
những người duy lý đề cao lý trí, một số người trở lại quan niệm thái cực của
Luther, coi lý trí đã suy yếu tới mức độ không còn có thể nhận ra chân lý, ngay
cả những chân lý thuộc lãnh vực tự nhiên; những người này chủ trương con người
cần nhờ mặc khải để biết chân lý, dù chân lý đó thuộc bình diện tự nhiên. Đây
là chủ trương của những người bị ảnh hưởng bởi sùng tín (piétisme) và duy tín
(fidéisme) nơi anh em Tin Lành. Chủ trương này còn được gọi một tên khác: duy
truyền thống.
Những sai lầm trên đây đã được huấn
quyền Giáo Hội sửa sai, chỉnh đốn, kết án; nhưng lạc giáo vẫn chưa hoàn toàn
chấm dứt. Chính trong bầu khí này mà công đồng chung Vatican I bàn về mặc khải
trong hiến chế tín lý Dei Filius.
Hiến chế Dei Filius gồm bốn chương. Chương đầu bàn về Thiên Chúa là Đấng Tạo
Hóa, chương hai bàn về mặc khải, chương ba bàn về đức tin, và chương bốn bàn về
tương quan giữa đức tin và lý trí.
Chương bàn về mặc khải được trích
lại trong DS. 3004-3007.
DS. 3004:
“Giáo Hội Mẹ Thánh khẳng định và dạy
rằng, Thiên Chúa- nguyên lý và mục đích của mọi sự có thể được nhận biết cách
chắc chắn bởi ánh sáng tự nhiên của lý trí con người qua các tạo vật; thực vậy,
những gì vô hình của Người đã được trí khôn nhìn thấy qua các tạo vật trên thế
gian là những cái đã được Người tạo thành: tuy nhiên theo sự khôn ngoan và nhân
từ của Người, Người đã mặc khải cho nhân loại chính Người và ý định muôn đời
của thánh ý Người bằng một con đường siêu nhiên khác, như lời thánh tông đồ đã
phán: ngày xưa nhiều lần và nhiều cách, Thiên Chúa đã nói với cha ông qua các
tiên tri, nhưng trong những ngày sau hết này, Người đã nói với chúng ta qua Con
người (Dt. 1, 1tt)”.
Qua bản văn này công đồng khẳng
định:
·
Con người có thể nhận
biết Thiên Chúa bằng trí khôn của mình. Đây là điều chúng ta phải chấp nhận như
đức tin công giáo; còn nhận biết như thế nào, giải thích việc nhận biết này ra
sao, là nhiệm vụ của các nhà thần học.
·
Thiên Chúa đã mặc khải
cho con người bằng một con đường khác, con đường siêu nhiên (ngoài con đường
bình thường mà lý trí có thể nhận biết Thiên Chúa).
·
Đối tượng mặc khải:
Thiên Chúa và chương trình ý định muôn đời của Người.
·
Mặc khải là do sáng kiến
của Thiên Chúa, do ý định tốt lành và sự khôn ngoan của Người, chứ không phải
do cái gì khác. Thiên Chúa không bị bó buộc phải mặc khải cho con người. Mặc
khải là hồng ân Thiên Chúa ban cho con người.
DS. 3005:
“Chính nhờ mặc khải thần linh này,
những gì thuộc thần linh tự bản chất không nằm trong tầm với của lý trí con
người, có thể được nhận biết cách chắc chắn và không một chút sai lầm trong
hoàn cảnh hiện tại của con người. Không phải vì điều đó mà mặc khải được coi là
cần thiết, nhưng vì lòng tốt lành vô cùng của Thiên Chúa, Ngài đã quy hướng con
người tới mục đích siêu nhiên, tới hưởng các sự tốt lành thánh thiện vượt qua
trí khôn con người có thể hiểu; Vì những gì mắt không thấy, tai không nghe,
lòng không thể hiểu, thì Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những kẻ Ngài yêu (1Cor. 2,
9)”.
Theo DS. 3005, mặc khải thực sự cần
thiết vì:
·
giúp con người nhận
biết các chân lý vượt quá khả năng con người,
·
con người được tạo dựng
để hướng tới mục đích siêu nhiên của mình, và nếu không nhờ mặc khải thì con
người không thể đạt được mục đích này.
Nói cách khác, nếu không nhờ mặc
khải thì con người không thể biết các chân lý vượt quá sức con người; và nếu
không biết chân lý này, thì không thể đạt được cùng đích đời mình là sống hạnh
phúc với Thiên Chúa, hưởng kiến Thiên Chúa.
DS. 3006:
“Mặc
khải này, theo như đức tin được thánh công đồng Trentô tuyên bố, được chứa
trong sách thánh và trong truyền thống không được viết, được các tông đồ lãnh
nhận qua môi miệng của chính Đức Kitô, hay được truyền cho các tông đồ như là
từ tay qua tay dưới sự đọc cho viết bởi Thánh Thần, và truyền đến chúng ta”
(DS. 1501).
Với bản văn này, công đồng đồng hóa
mặc khải với sách thánh và truyền thống; theo nghĩa này mặc khải được hiểu ở
đây là những chân lý; tuy vậy điều này không phủ nhận thực tại được mặc khải là
thực thể sống động, là Thiên Chúa hằng sống với ý định vĩnh cửu của Ngài.
Sau đây là những quy chuẩn đức tin,
công đồng lên án chống lại những người phủ nhận giá trị của thần học tự nhiên,
lên án những người chủ trương tôn giáo tự nhiên, lên án những người đề cao lý
trí cách tuyệt đối!
DS. 3026:
“Nếu
ai nói: Thiên Chúa Đấng duy nhất và thân thực, Đấng tạo hóa và Chúa của chúng
ta, không thể nhận biết cách chắc chắn bởi ánh sáng tự nhiên của lý trí con
người, qua những tạo vật, thì bị tuyệt thông.”
Quy
chuẩn đức tin này nhắm tới sai lầm của những người mang danh duy tín hoặc duy
truyền thống. Họ phủ nhận giá trị đích thực của lý trí, và như vậy phủ nhận
thần học tự nhiên.
DS. 3027:
“Nếu
ai nói: việc con người được dạy dỗ bởi mặc khải, về Thiên Chúa và về việc thờ
phượng phải dâng kính Ngài, là chuyện không có thể và vô dụng, thì người đó bị
tuyệt thông”.
Với
quy chuẩn đức tin này, công đồng bài bác lập trường cho rằng mặc khải là điều
không cần thiết, cũng như lập trường cho rằng mặc khải là chuyện không thể có
được. Đó là lập trường của những người cho rằng lý trí là đủ, không cần có mặc
khải.
DS. 3028:
“Nếu
ai nói rằng, con người không có thể được nâng lên đạt tới nhận thức và sự trọn
lành vượt qúa sức tự nhiên của con người, nhưng con người có thể và phải tự
mình đạt tới việc sở hữu mọi điều chân thực và tốt lành bằng sự tiến bộ liên
tục, thì người đó bị tuyệt thông”.
Quy
chuẩn này cho thấy công đồng bài bác lập trường cho rằng mặc khải là điều làm
hạ giá con người, và như vậy trái bản tính con người; lập trường này cho rằng,
quan niệm đúng đắn là con người phải tự mình đạt tới Thiên Chúa, vì con người
có thể làm chuyện này.
DS. 3041:
“Nếu
ai nói rằng, không có bất cứ một mầu nhiệm đúng nghĩa nào trong mặc khải và các
tín điều có thể được hiểu và trình bày bởi lý trí của một người có học dựa vào
các nguyên tắc tự nhiên, thì người đó bị tuyệt thông”.
Đây
là một quy chuẩn của chương bốn hiến chế Dei Fillius, bàn về tương quan giữa lý
trí và đức tin. Quy chuẩn này lên án chủ trương cho rằng lý trí con người có
khả năng đạt tới Thiên Chúa, mặc khải là chuyện không cần thiết, không có mặc
khải đích thực, cái gọi là mặc khải cũng chỉ nằm trong tầm với của lý trí con
người. Đây là lập trường của những người theo tôn giáo tự nhiên (Deism) và
phong trào duy lý.
DS. 3029:
“Nếu
ai không nhận tất cả và từng phần của Kinh Thánh như đã được công đồng Trentô
liệt kê là sách thánh và sách quy chuẩn, hoặc phủ nhận tính linh hứng của các
sách đó, thì người đó bị tuyệt thông”.
Khẳng
định này nhằm bảo vệ mặc khải. Như vậy, mặc khải ở đây một lần nữa được đồng
hóa với Kinh Thánh như những chân lý.
Công đồng Vatican I đã cho thấy chủ
thể mặc khải là chính Thiên Chúa, đối tượng chất thể mặc khải là Thiên Chúa và
chương trình cứu độ con người. Công đồng cũng khẳng định mặc khải là điều thực
sự tối cần thiết để con người đạt được cứu cánh đời mình.
Thuyết duy tân (modernisme) đã làm
huấn quyền Giáo Hội bận tâm nhiều. Những người theo duy tân thuyết nỗ lực thích
ứng giáo lý công giáo với tư tưởng hiện đại, với những điều mà con người thời
đại chấp nhận.
a. Duy tân thuyết
Não trạng duy lý không chấp nhận tín
điều, nên những người theo thuyết duy tân giải thích lại tín điều công giáo;
nhưng khi làm điều này, họ đã lấy tư tưởng hiện đại đương thời làm tiêu chuẩn,
và đã phạm sai lầm khi cắt bớt hoặc giải thích sai lạc mặc khải công giáo. Ở
đây chỉ đơn cử hai tác giả tiêu biểu, đó là Alfred Loisy và Georg Tyrrell[95].
Alfred Loisy cho xuất
bản quyển sách nhan đề L'Évangile et l'Église vào năm 1902, nhằm trả lời quyển
sách của Adolf von Harnack (1851-1930) có tựa đề Wesen des Christentums. Với
quyển sách của Loisy này, có thể coi duy tân thuyết được khởi đầu. Giáo quyền
đã lên án quyển sách này. Nó chủ trương yếu tính của Kitô giáo chưa được xác
định, vì chân lý của Kitô giáo cũng như những chân lý nhân loại, cũng tương đối
và có tiến bộ.
Năm 1903, Loisy cho xuất bản quyển
“Autour d'un petit livre” nhằm biện minh cho lập trường của mình. Trong quyển
sách này, ông viết: “Cái được gọi là mặc khải chỉ là ý thức của con người trong
tương quan với Thiên Chúa... tương phản với tri thức thuộc phạm vi lý trí và
khoa học, tri thức chân lý tôn giáo không chỉ là kết quả của lý trí nhưng nó
còn là công việc của trí khôn, được khám phá dưới sự thúc đẩy của con tim, của
luân lý và tôn giáo, của ý muốn thực sự hướng tới sự thiện”[96].
Theo A. Loisy, mặc khải không là một
giáo lý được ban cho con người. Mặc khải cũng không là kho tàng chân lý không
đổi, nhưng là tri thức trực quan (và kinh nghiệm) về tương quan giữa con người
và Thiên Chúa; tri thức trực quan này luôn biến đổi. Mặc khải, xét như là tín
điều thần học, luôn biến đổi. Mặc khải đang được hình thành[97].
Georg Tyrrell trình bày
tư tưởng về mặc khải của mình trong quyển Through Scylla and Charybdis được
xuất bản vào năm 1907.
Theo Tyrrell, mặc khải hệ tại một
kinh nghiệm gần như thần bí, và không được đồng hóa với những cấu tố tri thức
của kinh nghiệm này. Các tông đồ đã lãnh nhận trọn vẹn mặc khải qua việc hiệp
thông với đức Kitô. Mặc khải nơi chúng ta phải là một kinh nghiệm tiên tri mới,
được lập lại nơi chúng ta. Mặc khải không được truyền thông, nhưng có thể được
tạo dịp qua việc rao giảng và qua những bản viết. Các tín điều của Giáo Hội
không là mặc khải, nhưng chỉ là phản ứng của con người đối với mặc khải; Các
tín điều được dùng khi nó giúp đỡ và phải bỏ khi nó che dấu mặc khải[98].
Tóm lại, với Loisy, không có mặc
khải. Cái người ta gọi là mặc khải chỉ là những ý thức những kinh nghiệm con
người có về Thiên Chúa; như vậy, mặc khải luôn thành hình, không là cái bất
biến không đổi. Còn với Georg Tyrrell, có thực tại mặc khải siêu việt, nhưng nó
không được truyền từ người này sang người kia; nghĩa là, mỗi người phải lãnh nhận
mặc khải cho mình; vì vậy, tín điều không là mặc khải. Như vậy theo Tyrrell, có
mặc khải nơi các tông đồ và các tiên tri, nhưng những điều này không liên hệ và
không bổ ích cho chúng ta bao nhiêu.
b. Phản ứng của huấn quyền
Đứng trước những sai lầm của thuyết
duy tân về mặc khải, huấn quyền đã can thiệp nhằm bảo vệ tinh tuyền đức tin
công giáo.
Sắc lệnh Lamentabili
được đức giáo hoàng Piô X công bố ngày 03.07.1907 thu tóm 65 mệnh đề sai lạc
của chủ thuyết duy tân (DS. 3401-3466), trong số này có những mệnh đề liên quan
đến mặc khải (DS. 3420-3426).
DS. 3420: “Mặc khải không là gì khác
hơn ý thức con người về tương quan giữa mình và Thiên Chúa”.
Đây
là mệnh đề của Loisy, phủ nhận mặc khải được hiểu theo nghĩa truyền thống của
Giáo Hội Công Giáo.
DS. 3421: “Mặc khải cấu thành đối
tượng đức tin công giáo, không hoàn tất với các tông đồ”.
Đây
là lập trường của G. Tyrrell, chủ trương mặc khải tiến bộ, hiểu theo nghĩa nó
là những chân lý được con người khám phá ra; như con người thay đổi, những chân
lý đó cũng thay đổi.
DS. 3422: “Các tín điều, điều mà
Giáo Hội xác nhận như là mặc khải, không là những chân lý từ trời xuống (nguồn
gốc thần linh), nhưng chỉ là lời giải thích các sự kiện tôn giáo mà lý trí con
người có thể nhận ra với một nỗ lực nghiêm chỉnh”.
Đây
cũng là lập trường của Tyrrell. Ông cho rằng, các tín điều chỉ là nỗ lực nhân
loại chứ không phải là mặc khải. Hiểu như vậy, con người có thể bỏ tín điều này
hoặc tín điều kia; hoặc nó sẽ thay đổi thành một tín điều mới thích hợp với con
người hơn.
Thông điệp Pascendi Dominici Gregis được đức giáo
hoàng Piô X ban hành vào ngày 08.09.1907, nhằm cảnh giác các tín hữu và mọi
tầng lớp trong Giáo Hội, để đừng rơi vào duy tân thuyết[99].
Tự sắc Sacrorum Atistites được đức Piô X ban
hành ngày 01. 09.1910, buộc tất cả các giáo sĩ làm mục vụ hay công tác giảng
dạy phải thề từ bỏ tất cả các khẳng định của thuyết duy tân về mặc khải và về
truyền thống!
DS. 3538:
“Thứ
nhất tôi tuyên xưng rằng: Thiên Chúa, nguyên lý và mục đích của mọi sự, có thể
được nhận biết cách chắc chắn, và vì vậy có thể được minh chứng bởi ánh sáng tự
nhiên của lý trí từ những cái đã được tạo thành, nghĩa là bởi những công trình
hữu hình tức tạo thành, như nguyên nhân bởi kết quả”.
DS. 3539:
“Thứ
hai, tôi biết và chấp nhận những luận chứng bên ngoài của mặc khải, tức là
những sự kiện thần linh, nhất là các phép lạ và các lời tiên tri, như là những
dấu chỉ rất chắc chắn chứng tỏ nguồn gốc thần linh của Kitô giáo; và tôi khẳng
định, chúng hoàn toàn thích hợp với trí khôn của con người của mọi thời đại, kể
cả với thời đại ngày nay”.
DS. 3540:
“Thứ
ba, tôi tin với cùng một đức tin chắc chắn rằng, Giáo Hội là thầy và là người
gìn giữ lời mặc khải, được chính Đức Kitô chân thực và lịch sử thiết lập trực
tiếp khi Ngài sống giữa chúng ta; và tôi tin Giáo Hội này được xây trên Phêrô
là đầu của phẩm trật tông đồ, và trên những người kế vị ngài trong mọi thời
đại”.
DS. 3541:
Thứ
tư, tôi nhận cách chân thành giáo lý đức tin được truyền bởi các tông đồ cho
tới chúng ta qua các giáo phụ chính thống với cùng ý nghĩa và cùng những lời
giải thích; cũng vậy tôi từ bỏ cách giải thích lạc giáo cho rằng tín điều tiến
hóa từ một nghĩa đen này đến một nghĩa khác, khác với nghĩa mà Giáo Hội đã có
trước; cũng tương tự như vậy tôi kết án mọi sai lầm cho rằng, sáng kiến triết
lý hay sự sáng tạo của ý thức con người, được hình thành do nỗ lực của con
người và được hoàn chỉnh do những tiến bộ không ngừng, sẽ thay thế kho tàng
thần linh đã được truyền lại cho hiền thê Đức Kitô, và được gìn giữ cách trung
thành bởi chính Giáo Hội.
DS. 3542:
“Thứ
năm, tôi khẳng định và tuyên xưng chân thành rằng, đức tin không là tình cảm
tôn giáo mù quáng hình thành từ vùng tối tăm của vô thức do con tim và ý muốn
luân lý thúc đẩy, nhưng là sự đồng tình thực sự của lý trí đối với chân lý được
đón nhận do nghe (rao giảng), điều mà chúng tôi tin rằng thật, được mặc khải,
được xác chuẩn, được phán truyền bởi chính Thiên Chúa ngôi vị, được phán truyền
bởi chính Thiên Chúa ngôi vị, Đấng Tạo Hóa và là Chúa chúng tôi, bởi quyền năng
của Thiên Chúa chân thực”.
Lược đồ về mặc khải đầu tiên đã được
bàn cãi từ 14.11.1962, và bản văn được bỏ phiếu vào ngày 20.11.1962 với 1368
phiếu chống, 822 phiếu thuận, và 19 phiếu bất hợp lệ. Đức giáo hoàng Gioan
XXIII đã can thiệp, trả lược đồ lại cho ủy ban hỗn hợp.
Bản văn hiến chế Mặc khải Dei Verbum
là bản văn được bỏ phiếu vào ngày 29.10.1965 với 2081 phiếu thuận, 27 phiếu
chống, và 7 phiếu bất hợp lệ (2115 nghị phụ); vào ngày công bố (18.11.1965) có 2344
phiếu thuận, 6 phiếu chống (tất cả 2350 nghị phụ).
Hiến chế Dei Verbum gồm 26 số, ngoài
số dẫn nhập, hiến chế được chia thành sáu chương:
Số
2-6: bàn về chính mặc khải
Số
7-10: bàn về lưu truyền mặc khải
Số
11-13: bàn về linh hứng và giải thích Kinh Thánh
Số
14-16: Về Cựu Ước
Số
17-20: Về Tân Ước
Số
21-26: Kinh Thánh trong đời sống Giáo Hội.
Giáo trình về mặc khải này lưu ý đặc
biệt chương một, từ số 2-6, vì từ đây phát sinh những tư tưởng phong phú và nền
tảng của thần học mặc khải.
Số mở đầu trình bày mặc
khải như thực thể sống động.
“Chúng tôi loan truyền cho anh em sự
Sống đời đời, đã có nơi Chúa Cha và đã hiện đến với chúng tôi: điều chúng tôi
đã thấy, đã nghe, chúng tôi loan truyền cho anh em, để anh em cũng được hiệp
nhất với chúng tôi và chúng ta được hiệp nhất với Chúa Cha và với Chúa Yêsu
Kitô Con Ngài” (1Ga.1, 2-3).
Sự Sống đã đến. Loan báo về sự Sống
là loan báo những điều mình đã thấy đã nghe về chính sự Sống này. Sự Sống đã
nhập thể, và hơn nữa sự Sống đã trở thành lời được loan báo, đã trở thành chữ
được viết để loan báo. Như vậy, chúng ta không được dừng lại ở lời loan báo,
không được dừng lại ở chữ viết để loan báo, nhưng chúng ta phải vươn lên tới sự
Sống đời đời, tức là thực tại được loan báo.
Dei Verbum số 1 chưa đề cập đến đối tượng
mặc khải, nhưng đã thấy hàm chứa: đối tượng mặc khải không chỉ là chữ viết,
không chỉ là lời loan báo về sự Sống, nhưng chính là sự Sống ở nơi Cha và đã
đến giữa con người.
Mục đích mặc khải, mục đích việc
loan truyền mặc khải, là để chúng ta được thông dự, thông hiệp với chính Thiên
Chúa là Cha và với Chúa Yêsu Kitô. Đây cũng là mục đích của con người, là cứu
cánh của con người, là ơn gọi của chính con người. Hiệp thông với Thiên Chúa là
hạnh phúc vĩnh cửu, là thiên đàng, là tất cả những gì con người có thể ao ước.
Ở đây công đồng cũng không đưa ra
lời khẳng định mặc khải là cần thiết, nhưng khi trình bày mặc khải như sự hiệp
thông với Thiên Chúa, công đồng cũng cho thấy mặc khải là việc tối quan trọng
để con người đạt tới cùng đích đời người; không có mặc khải, con người không
thể hiệp thông với Thiên Chúa được, và như vậy, không thể đạt tới mục đích tối
hậu của đời người.
Số 2
Đối tượng mặc khải: Thiên Chúa mặc
khải chính mình và mầu nhiệm thánh ý Ngài. Thiên Chúa mặc khải Ngài là ai cho
con người, và khi mặc khải như vậy, Ngài cũng cho con người biết con người là
ai. Mặc khải giúp con người biết nguồn gốc của mình, lý do hiện hữu của mình,
tương lai mình sẽ đi về đâu, cùng đích đời mình là gì, mình phải có tương quan
với Thiên Chúa ra sao! Và một khi thấy rõ ý định của Thiên Chúa về mình, con
người phải đáp trả.
Mục đích mặc khải: giúp con người đi
đến với Chúa Cha, và được thông phần bản tính của Người nhờ đức Kitô và Thánh
Thần. Mặc khải có mục đích giúp con người đạt được hạnh phúc, đạt được cứu cánh
đời mình, tức thông hiệp với Thiên Chúa.
Chiều kích Ba Ngôi của mặc khải: con
người đến với Thiên Chúa Cha nhờ Đức Kitô làm người và trong Thánh Thần.
Lý do mặc khải: nguyên động lực của
mặc khải là tình thương chứa chan của Thiên Chúa. Thiên Chúa hoàn toàn tự do,
không bị ép buộc bởi bất cứ điều gì khi mặc khải cho con người. Thiên Chúa hạnh
phúc với chính Ngài, Ngài không có một nhu cầu nào từ bên ngoài. Việc mặc khải
cho con người để họ tham dự sự sống với Người là do tình thương của Người mà thôi;
không có sự cần thiết hữu thể hoặc luân lý nào buộc Thiên Chúa phải mặc khải
cho con người, xét về khía cạnh Thiên Chúa.
Cách thức mặc khải: Thiên Chúa ngỏ
lời với con người như một người bạn nói chuyện với người bạn. Ngài trao đổi với
họ, mời gọi họ hiệp nhất với Ngài, và Ngài tiếp nhận họ.
Mặc khải mang chiều kích liên vị:
Thiên Chúa tôn trọng và yêu thương con người. Hành vi đối thoại, là hành vi đề
cao con người.
Mặc khải có dự tính: mặc khải không
là chuyện hời hợt được thực hiện một sáng một chiều, nhưng là cả một chương
trình, được Thiên Chúa thực hiện qua hành động và Lời.
Ở đây vang vọng chữ DABAR của Do
Thái: DBR gồm cả biến cố và lời. Thiên Chúa không chỉ soi sáng tâm hồn của các
tiên tri, nhưng Ngài còn thực hiện những biến cố trong lịch sử, và dùng lời để
giải thích sự kiện lịch sử này. Mặc khải kitô giáo khác ơn khải ngộ nơi các
hiền nhân hoặc tiên tri của các tôn giáo khác.
Đức Kitô là trung gian mặc khải, là
mục đích mặc khải, là mặc khải viên mãn. Ngài là Lời và hành động Thiên Chúa
mặc khải cho con người. Nơi Đức Kitô, chúng ta không còn phải chờ một mặc khải
nào mới nữa, vì nơi Ngài là tất cả mặc khải; Với Ngài mặc khải đã và đang đạt
đến đích.
Số 3:
Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và bảo tồn
mọi sự nhờ ngôi Lời, luôn yêu thương và chăm sóc con người. Ngài không ngừng tỏ
mình cho con người qua các tạo vật, ban sự sống đời đời cho tất cả những ai tìm
kiếm sự cứu rỗi nhờ kiên tâm làm việc thiện; đó là lịch sử cứu độ “bằng đường
lối bình thường”. Khi đến thời đã định, Ngài kêu gọi Abraham và lập một dân
tộc; Ngài đã dùng Môsê và các tiên tri để dạy dỗ họ, để họ nhận biết Ngài; với
Abraham, Thiên Chúa đã bắt đầu thực hiện một lịch sử cứu độ “đặc biệt”.
Thiên Chúa đã mặc khải trong dòng
lịch sử và qua lịch sử dân Do Thái; Ngài đã mặc khải cho một số người thuộc dân
Do Thái nhưng hành động mặc khải này nhắm đến nhiều người, nhắm đến tất cả mọi
người thuộc mọi dân tộc. Từ Abraham, mặc khải có chiều kích lịch sử vì Thiên
Chúa đã can thiệp vào lịch sử dân Do Thái.
Số 4:
Đức Yêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, là
tiếng nói của Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa, là Đấng mặc khải Thiên
Chúa, là chính mặc khải trọn hảo, là tuyệt đỉnh mặc khải, là giao ước vĩnh cửu,
là sự sống đời đời. Với Ngài, người ta không phải chờ đợi một mặc khải công
cộng nào khác nữa trước khi Chúa Yêsu Chúa chúng ta hiện đến trong vinh quang.
Số 5:
Vâng phục đức tin, lời đáp trả đối
với mặc khải của Thiên Chúa. Để có đức tin này, cần ân sủng của Thiên Chúa và
sự trợ giúp của Thánh Thần.
Số 6:
Công đồng tái khẳng định: Thiên Chúa
muốn dùng mặc khải để bày tỏ và thông ban chính mình Ngài cùng những ý định
muôn đời của Ngài liên quan đến phần rỗi nhân loại.
Công đồng cũng tuyên xưng:
·
Với ánh sáng tự nhiên
của lý trí, con người có thể nhận biết cách chắc chắn có Thiên Chúa như nguyên
lý và cứu cánh mọi sự, khởi từ các tạo vật;
·
Những gì thuộc về Thiên
Chúa mà tự nó vốn không vượt quá khả năng lý trí con người, có thể được biết
cách dễ dàng chắc chắn không lẫn lộn sai lầm nhờ mặc khải.
Công đồng Vatican II trong hiến chế
mặc khải Dei Verbum, đã trình bày đối tượng mặc khải là thực thể sống động khôn
dò, được loan báo rao giảng, và phải được đáp trả bằng sự vâng phục của đức
tin.
(Những sách được trích dẫn)
ĐÀO
DUY ANH, Hán Việt Từ Điển, PARIS 1950
J.
AUER, art. “Grâce”, II: Theological,
SACRAMENTUM MUNDI 1, BURNS and OATES 1968
M. A. BAILLY, Abrégé du
Dictionnaire Grec - Francais,
PARIS 1961
H.
M. BAUMGARTNER, art. “Transcendantal Philosophy”,
SACRAMENTUM MUNDI, BURNS & OATES 1968
E.
BIHLMEYER, Histoire de l'E'glise, t. I
SALVATOR - PARIS 1962
F.
CAYRÉ, Précis de Patrologie, t. I
DESLÉE et Cie- PARIS 1927
H.
CAZELLES, Introduction à la Bible
Introduction critique à l'ancient Testament, t. II, DDB. 1973
Y.
DORTIGUES, La Foi et la Théologie, PARIS 1962
H.
CORNELIS et A. LÉONARD, La Gnose éternelle,
Col. Je sais-ie crois, n.146 - PARIS 1959
A.
DARTIGUES, La Révélation du sens au salut,
DESCLÉE 1985
J.
DE FINANCE, Connaissance de l'Être, DDB- PARIS 1966
H.
DE LUBAC, Dieu se dit dans l'histoire, CERF 1974
DENZINGER
- SCHOENMETZER,
Enchiridion Symbolorum Definitionum et Declarationum,
HERDER 1963
A.
DULLES, Revelation Theology,
BURNS and OATES - HERDER and HERDER 1969
H.
FRIES, art. “Révélation”,
trong MYSTERIUM SALUTIS t. I, vol. I, CERF- PARIS 1969
H.
FRIES, “Le Mythe et la Révélation”,
trong QUESTIONS THÉOLOGIQUES AUJOURD’HUI,
DDB - PARIS 1964
Cl.
GEFFRÉ, art. “L’histoire récente
de la théologie fondamentale. Essai d'interprétation”,
trong CONCILIUM 46 (1969), pp. 11-28
R.
HAARDT, art. “Gnosticism”,
trong SACRAMENTUM MUNDI I, BURNS and OATES 1968
A.
HALDER, art. “Knowledge”,
trong SACRAMENTUM MUNDI, BURNS & OATES 1968
U.
HORST,
“La conception de la Révélation dans la haute scolastique”
trong
MICHEL SEYBOLD, La révélation dans l'écriture,
la patristique, la scolastique, CERF- PARIS 1974
Thánh Công đồng chung
Vaticanô II,
GHHV PIÔ X ĐÀ LẠT, SAIGON 1972
R.
JOLIVET, Dieu Soleil des esprits
La doctrine augustinienne de l'illumination
DDB et Cie- PARIS 1934
N.
JUNG, art. “Révélation”, trong DTC, t. XIII, col. 2586
A.
KELLER, art. “Universals”,
trong SACRAMENTUM MUNDI, BURNS & OATES 1968
K.
KRENN, art. “Kantiannism”,
trong SACRAMENTUM MUNDI, BURNS & OATES 1968
R.
LATOURELLE, Théologie de la Révélation, DDB. 1966
R.
LATOURELLE, Théologie Science du Salut, PARIS 1968
R.
LATOURELLE,
art. “La spécificité de la Révélation chrétienne”,
trong STUDIA MISSIONALIA, vol. XX, GREGORIANA 1971
E.
F. LEOPOLD, Lexicon Hebraicum et Chaldaicum,
LIPSIAE 1905
J.
PHẠM THANH LIÊM,
Thần học các tôn giáo ngoài Kitô giáo, ĐALAT 1982, bđm.
LNC
(14.12.52), Dẫn nhập Thần học, ĐL. 38
A.
LOISY, The Gospel and the Church, PARIS 1903
J.
E. McKENZIE, Dictionary of the Bible, MILWAUKKE 1965
J.
E. McKENZIE, art. “Aspects of old Testament Thought”
trong Jerome Biblical Commentary
LÊ
TÔN NGHIÊM, Lịch sử Triết học Tây Phương,
LÁ BỐI 1970
G.
PARRINDER, “Revelation in other Scriptures”
trong STUDIA MISSIONALIA, vol. XX, GREGORIANA 1971
PAUL
VI, enc. “Ecclesiam suam”
K.
RAHNER, L'Esprit dans le monde, MAME 1968
K.
RAHNER, L'homme à l'écoute du Verbe, MAME 1967
K.
RAHNER,
“A propos de la réforme des études ecclésiastiques”,
trong
K. RAHNER, Est-il possible aujourd'hui de croire,
MAME 1966
K.
RAHNER, art. “SALVATION”,
trong MYSTERIUM SALUTIS - HERDER 1970
F.
RICKEN, art. “Platonism”, trong SACRAMENTUM MUNDI
J.
SPLETT, art. “Agnosticism”,
trong SACRAMENTUM MUNDI - BURNS and OATES 1968
P.
STOCKMEIER,
“Révélation dans l'Église chrétienne primitive”,
trong La Révélation dans
l'Écriture, la patristique,
la Scolastique, Col. HISTOIRE DES DOGMES- CERF 1974
THANH
NGHỊ, Việt Nam Tân Tự Điển Minh Họa,
KHAI TRÍ - SAI GON 1965
THIỀU
CHỬU, Hán Việt Tự Điển, HÀ NỘI 1942
G.
THILS, Propos et Problèmes de la théologie
des religions non-chrétiennes, CASTERMAN 1966
S. THOMAE In Aristotelis
Librum De Anima Commentarium
MARIETTI - ITALY 1959
S.
THOMAE, Summa Theologiae, MARIETTI-ITALY 1952
S.
THOMAE AQUINATIS,
Liber de Veritate Catholicae Fidei contra errores Infidelium
seu Summa Contra Gentiles, MARIETTI 1961
F.
J. THONNARD, Extraits des grands philosophes,
DESCLÉE et Cie-PARIS 1963.
F.
J. THONNARD, Présis d'histoire de la philosophie,
DESCLÉE et Cie-PARIS 1966.
Kinh Thánh
bd. NGUYỄN THẾ THUẤN, DCCT-SG. 1976
INHAXIO
LOYOLA, Linh thao, NTDT- THỦ ĐỨC 1969
G.
A. WETTER, art. “Marxism”,
trong SACRAMENTUM MUNDI, BURNS & OATES 1968
HOME CHIA SẺ LỜI CHÚA
LINH ĐẠO
THẦN HỌC
ĐỜI SỐNG
SOME THEMES IN ENGLISH
DẪN NHẬP THẦN HỌC
MẶC KHẢI
SẼ SỐNG NẾU BẠN TIN TÔN GIÁO NGOÀI KITÔ ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG
Chúc
bạn an vui hạnh phúc.
phamthanhliem
[1] R. LATOURELLE, op. cit., p. 88
[2] C. BIHLMEYER, Histoire de l’Église, t. I, SALVATOR-PARIS 1962, p. 229
[3] P. STOCKMEIER, “Révélation dans l’Église chrétienne primitive”,
trong La Révélation dans l’Écriture, la patristique, la scolastique,
Coll. HISTOIRE DES DOGMES, CERF 1974, pp. 74-76
[4] C. BIHLMEYER, op. cit., pp. 233-234
[5] Platon, Timée 28C
[6] P. STOCKMEIER, art. cit., pp. 82-87
[7] C. BIHLMEYER, op. cit., pp. 239-340
[8] Adversus Haer. III, 9, 1:
“Unus igitur idem Deus est, Pater Domini Nostri, qui et praecursorem per prophetas missurum se promisit: et salutare suum, id est Verbum suum, visibile efficit.
[9] Cf. Ad. Haer. IV. 6, 4: sine Deo non cognosci Deum... Cognoscunt enim eum quibuscumque revelaverit Filius.
[10] Ad. Haer. IV, 20, 7: Verbum... hominibus per multas dispositiones ostendum Deum.
[11] Ad. Haer. II, 23, 1: Dominum tantae dispositionis recapitulationem facientem.
[12] Adversus Haer. III, 1, 1:
“Non enim per alios dispositionem salutis nostrae cognovimus, quam per eos per quos Evangelium pervenit ad nos.
[13] “Lời một kh i đã làm người, đã ban cho chúng ta Tin Mừng dưới bốn hình thức” (Ad. Haer. III, 2, 8).
[14] Adversus Haer. III, 2, 1:
“... non enim per litteras traditam illam, sed per vivam vocem”.
[15] Ad. Haer. II, 30, 9: Hic Deus Abraham, et Deus Isaac, et Deus Yacob, Deus vivorum, quem et lex annuntiat, quem Apostoli tradunt, quem Ecclesia credit. Cf. Ad. Haer. III, 3, 1.
[16] P. STOCKMEIER, art. cit., pp. 93-104
Tất cả phần về thánh Iréné được tóm từ đây.
[17] Tất cả phần về thánh Clément d’Alexandrie được tóm nơi
P. STOCKMEIER, art. cit., pp. 112-119
[18] P. STOCKMEIER, art. cit., p. 114
[19] Ibidem
[20] P. STOCKMEIER, art. cit., p. 115
“Lời, Đấng tỏ lộ Cha như Cha, đã trở nên “thân xác” với ngũ quan” (Stromata V, 24, 1).
[21] Phần lớn những điều nói về Origène ở đây, được tóm trong
P. STOCKMEIER, art. cit., pp. 119-125
[22] C. BIHLMEYER, op. cit., pp. 245-249
[23] R. GOEGLER, Das Evangelium nach Johannes
được trích dẫn bởi P. STOCKMEIER, art. cit., p. 122
[24] F. CAYRÉ, Précis de Patrologie, t.I, l. I-II, DESCLÉE et CIE, PARIS 1927, p. 601 trích dẫn AUGUSTINUS, Confess., l. III, c. IV, 7
[25] Ibidem
[26] F. CAYRÉ, op. cit., p. 602
[27] F-J. THONNARD, Précis d'histoire de la Philosophie, p. 204
[28] F. CAYRÉ, op. cit., p. 604
[29] R. JOLIVET, Dieu Soleil des esprits,
La doctrine augustinienne de l’illumination,
DDB et CIE, PARIS 1934, pp. 44-45
[30] F-J. THONNARD, Précis d'histoire de la Philosophie, p. 204
[31] R. JOLIVET, Dieu Soleil des esprits, pp. 44-45 trích dẫn
AUG., Contra Academicos, III, c. VI, n. 13, t.I, col. 467a
AUG., De vita beata, c. IV, n. 35, t.I, col. 519b
AUG., Soliloques, I, c. I, n. 3, col. 599c
AUG., De Magistro, c. XI, n. 38, t. I, col. 916a
[32] F-J. THONNARD, Précis d'histoire de la Philosophie, p. 202:
“Donc la raison ne peut qu’un rôle préparatoire et secondaire...”
[33] F-J. THONNARD, Précis d'histoire de la Philosophie, p. 200
[34] R. JOLIVET, Dieu Soleil des esprits, pp. 26-27
và những trích dẫn tác phẩm của thánh Augustinus.
[35] Op. cit., pp. 33-34. 58-59
[36] Op. cit., p. 189
[37] Op. cit., pp. 149. 189
[38] Op. cit., p. 156 trích dẫn
AUG., In Joan. Evang. Tract. XV, n. 19, t. III, col. 1858b
[39] R. JOLIVET, Dieu Soleil des esprits, p. 80
[40] Op. cit., pp. 189-190
[41] F. CAYRÉ, op. cit., p. 602
[42] Bonnaventura sinh vào khoảng năm 1221, Ngài đã nhập dòng Phanxicô và đã là bề trên cả của dòng này. Ngài chết cùng năm với thánh Thomas d’Aquino dòng Đa-Minh, tức năm 1274.
[43] ULRICH HORST, “La conception de la révélation dans la haute scolastique”, trong MICHEL SEYBOLD, La révélation dans l’écriture, la patristique, la scolastique, CERF- PARIS 1974, p. 216
[44] F-J. THONNARD, Précis d'histoire de la Philosophie, pp. 392-393
[45] Op. cit., p. 390
[46] ULRICH HORST, art. cit., p. 217
[47] Ibidem
[48] “Haec similitudo est ratio expressiva cognoscendi”.
[49] “lux expressiva in cognitione intellectuali”.
[50] F-J. THONNARD, Précis d'histoire de la Philosophie, p. 393
trích dẫn I Sent., dist. 35, q. 1, fund. 2
và I Sent., a. 1, q. IV, concl.
Chính nhờ lý thuyết về các ý niệm này, mà Bonnaventura bắc một cây cầu giữa hữu hạn và vô hạn (ULRICH HORST, art. cit., p. 216-217).
[51] F-J. THONNARD, Précis d'histoire de la Philosophie, pp. 400-401
[52] Quoniam enim omnis creatura comparatur ad Deum et in ratione causae et in ratione triplicis causae, ideo omnis creatura est umbra vel vestigium. Sed quoniam sola rationalis creatura comparatur ad Deum ut objectum, quia sola est capax Dei per cognitionem et amorem: ideo sola est imago.
(I Sent., d.3, p.1, a. un, q. 2, ad 4 (I, 72b-73b)
cf. ULRICH HORST, art. cit., p. 217
[53] ULRICH HORST, art. cit., p. 218
trích dẫn Quaestio disp. de scientia Christi, q. 4 (V, 24a) ở ghi chú 10.
[54] Op. cit., p. 219, ghi chú 14
[55] Sermo sel. de reb. theol. IV, n. 1: Unus est magister vester ... In verbo isto declaratur, quod est fontale principium illuminationis cognoscitivae... ipse est, qui est origo omnis sapientiae... Ipse Christus est autem fons omnis cognitionis rectae. Ipse est via, veritas et vita ... (ULRICH HORST, art. cit., p. 222).
[56] Op. cit., n.5: Ipse enim est fundamentum totius doctrinae authenticae, sive apostolicae sive propheticae, secundum utramque Legem, novam et veteram.
[57] Sermo de Tem. Fer.VI in Parasc., s.II, II:
Si volumus spiritualia contemplari, oportet tollere crucem ut librum, quo erudiamur ... Liber sapientiae est Christus, qui scriptus est intus apud Patrem, cum sit ars omnipotentis Dei; et foris, quando carnem assumit. Iste non est apertus nisi in cruce; istum librum debemus tollere, ut intelligamus arcana sapientiae Dei.
[58] I Sent., d. 11, a. un., q.1, ad 5:
Si verba (in Scriptura) non reperiantur, reperitur tamen sensus.
[59] I Sent., d. 27, p. 1, a. un., q. 4:
Nam quaedam sunt de necessitate fidei, quaedam de necessitate Scripturae, quaedam sunt his annexa, ut sunt illa quae faciunt ad fidei explicationem et Scripturae expositionem.
[60] III Sent., d. 25, a. 1, q. 1:
Nullum tamen est credibile a fide, quod non possit reduci ad articulos in symbolo contentos sicut ad principia dirigentia et stabilia fundamenta.
cf. ULRICH HORST, art. cit., p. 225.
[61] Phần lớn những gì viết trong phần về mặc khải theo thanh Bonaventura được lấy từ ULRICH HORST, art. cit., pp. 215-226
[62] F. CAYRÉ, op. cit., pp. 526-536
F-J. THONNARD, Précis d'histoire de la Philosophie, pp. 321ss
[63] F. CAYRÉ, op. cit., pp. 568-569
[64] II Contr. Gent., c. XCVIII: “Quidquid esse potest, intelligi potest”.
Cf. F-J. THONNARD, Précis d'histoire de la Philosophie, p. 361: “tout est intelligible par l’être”.
[65] F. CAYRÉ, op. cit., p. 574
trích dẫn S.T. I, q. 85, a. 2, note a của nxb. MARIETTI 1952, p. 584.
Vài từ ngữ được dịch:
phantasma: ảnh tượng
species intelligibilis: ảnh niệm
idea: ý niệm
[66] tức trật tự tự nhiên, khác với trật tự đặc biệt là trật tự siêu nhiên.
[67] Từ đây trở đi, về thánh Thomas, hầu hết được lấy trong
ULRICH HORST, art. cit., pp. 228 ss.
[68] ST. I, q.1, a.1: Homo ordinatur ad Deum sicut ad quemdam finem.
Cf. ScG. I, c. 1, n. 4.
[69] Và con người chỉ đạt được sự hưởng kiến này nếu con người tin vào Thiên Chúa như người học trò tin vào thầy dạy.
[70] ULRICH HORST, art. cit., p. 238
[71] nơi tiên tri, hai điều này là chủ yếu.
[72] Sup. Jo., c.VII, lect.4, n. 1074: cum enim Christi humanitas sit nobis via tendendi in Deum... non debemus in ea quiescere ut in termino, sed per eam debemus in Deum tendere.
[73] ST. III, 53, 1: “... ad commendationem divinae iustitiae, ad fidei nostrae instructionem, ad sublevationem spei, ad informationem vitae fidelium, ad complementum nostrae salutis”.
[74] In Rom., c. 8, lect. 6, n. 707: Vocatio hominum, quae quidem est duplex, una exterior, quae fit ore praedicatioris... Alia vero vocatio est interior quae nihil est quam mentis instinctus, quo cor hominis movetur a Deo ad assentiendum his quae sunt fidei vel virtutis.
[75] S.T.I, 1, 8, ad 2
[76] ST.II-II, 5, 3: Formale autem objectum fidei est veritas prima secundum quod manifestatur in Scripturis sacris et doctrina Ecclesiae.
[77] Cf. Ibidem: Unde quicumque non inhaeret, sicut infallibili et divinae regulae, doctrinae Ecclesiae, quae procedit ex veritate prima in Scripturis sacris manifestata, ille non habet habitum fidei.
[78] ST. II-II, 1,9: Ecclesia universalis non potest errare quia a Spiritu Sancto gubernatur, qui est Spiritus veritatis.
[79] ST. II-II, 1,10: Et ideo ad solam auctoritatem summi Pontificis pertinet nova editio symboli: sicut et omnia alia quae pertinent ad totam Ecclesiam, ut congregare synodum generalem et alia huiusmodi.
[80] Martin Luther sinh khoảng năm 1483 trong một gia đình nông dân tại Eisleben ở Đức. Năm 1501 ông vào đại học Erfurt. Năm 1505 ông vào tu viện thánh Augustin ở Erfurt, và năm 1507 lãnh tác vụ linh mục. Năm 1508 ông đến Wittenberg để học triết lý luân lý, và sau đó học Kinh Thánh. Từ năm 1513 trở đi, ông nghiên cứu nhiều về Kinh Thánh. Martin Luther chết khoảng năm 1546.
[81] C. BIHLMEYER, op. cit., III, pp. 172 tt
[82] J. CALVIN, Institutio christianae religionis, GENENAE 1618, L.I, c.5, n.2; c.2, n.1; L.II, c.6, n.1
trích bởi R. LATOURELLE, op. cit., pp.271-272
[83] A. DULLES, Revelation theology,
HERDER and HERDER-LONDON 1969, p. 48
[84] R. LATOURELLE, Théologie de la Révelation, DDB. 1966, p. 272
[85] dịch từ chữ protestant.
[86] tương ứng với Đức Yêsu, các tông đồ, Hội Thánh.
[87] Đa số phần này được lấy trong R.LATOURELLE, op. cit., pp. 273-276
[88] AVERY DULLES, op. cit., p. 52
[89] J. LOCKE, Concerning Human Understanding, bk.4, ch.19, n.4
NEW YORK 1947, p. 340
trích bởi A. DULLES, op. cit., p.53
[90] A. DULLES, op. cit., pp. 56-57
[91] A. DULLES, op. cit., pp. 58-59
[92] F. D. E. SCHLEIERMACHER, On Religion
NEW YORK, Paperback 1958, p. 89
trích bởi A. DULLES, op. cit., pp. 63-66
[93] Phần này được lấy trong A. DULLES, op. cit.,pp. 65-66
[94] A. DULLES, op. cit., pp. 66-67
[95] Alfred Loisy (1857-1940) là linh mục, đã dạy Kinh Thánh tại Institut catholique ở Paris vào những năm 1884-1893
Georg Tyrrell (1861-1909) vào dòng Tên năm 1880, dạy luân lý hai năm tại Stonyhurst, thường viết trong The Month; bị khai trừ khỏi Dòng năm 1906 vì không từ bỏ duy tân thuyết.
[96] A. LOISY, The Gospel and the Church, PARIS2 1903, pp. 195-197
[97] R. LATOURELLE, op. cit., p. 302
[98] AVERY DULLES, op. cit., pp. 84-85
[99] Một phần thông điệp được trích trong DS. 3475-3580