HOME CHIA SẺ LỜI CHÚA
LINH ĐẠO
THẦN HỌC
ĐỜI SỐNG
SOME THEMES IN ENGLISH
DẪN NHẬP THẦN HỌC
MẶC KHẢI
SẼ SỐNG NẾU BẠN TIN TÔN GIÁO NGOÀI KITÔ ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG
MẶC KHẢI
Jptl
MỤC LỤC:
B.
ĐỨC YÊSU- DẤU CHỨNG TÌNH YÊU
Bây giờ sẽ trình bày một cái nhìn
tổng hợp và nhất quán về mặc khải kitô giáo:
Thiên
Chúa là tình yêu
Đức
Yêsu là dấu chứng tuyệt vời tình yêu Thiên Chúa cho con người.
Mặc khải là lời bày tỏ và chứng thực
tình yêu Thiên Chúa cho con người.
Qua mặc khải nơi lịch sử dân Do
Thái, Thiên Chúa đã tỏ mình như Đấng giải phóng dân Israel, như chủ tể của vũ
trụ và lịch sử. Khởi từ kinh nghiệm này, dân Do Thái và những người khác đã
nhận biết Thiên Chúa là Đấng sáng tạo vũ trụ bằng lời của Người (St. 1-2), đã
giải phóng dân khỏi ách nô dịch bên Ai cập, đã đưa dân lưu đày từ Babylon trở
về.
Qua biến cố Yêsu Kitô, kitô hữu nhận
biết “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga. 4, 8. 16), Thiên Chúa là Thiên Chúa ba ngôi
vị.
Thiên Chúa là một bản tính nhưng là
ba ngôi vị. Ba ngôi vị Thiên Chúa nhưng là một Thiên Chúa. Nơi Thiên Chúa tất
cả là một trừ tương quan ngôi vị[1].
Cả ba ngôi vị hiệp thông với nhau cách lạ lùng và tuyệt diệu đến mức độ chỉ là
một Thiên Chúa Tình Yêu.
Tình yêu là tương quan giữa ngôi vị
với ngôi vị.
Nơi những ngôi vị thực sự tự do, nghĩa
là những hiện hữu lý trí hướng về Hiện Hữu Tuyệt Đối, tương quan giữa ngôi vị
là tình yêu, bởi vì tình yêu là ngôi vị hướng về ngôi vị theo lý trí “tự do”[2].
Nơi ngôi vị có một vẻ đẹp nào đó rất
đáng yêu. Có thể nói, mỗi ngôi vị là một kiệt tác của Thiên Chúa.
Nơi Thiên Chúa, ba ngôi vị yêu
thương nhau, cho nhau tất cả, hiệp thông với nhau trong tất cả đến độ có thể
nói là một trong vinh quang, là một trong sự thật, là một trong hoạt động[3],
v.v...
Tình yêu là ngôi vị thực sự tự do
hướng về nhau, cho nhau tất cả, trở nên một với nhau, hiệp thông tới mức độ
tuyệt vời. Tuy vậy, tình yêu là hành vi tự do, không là hành vi đương nhiên hay
tất yếu theo thể lý. Như vậy khi nào không thể cưỡng lại được, thì không có tự
do, và không là tình yêu “đích thực”. Thiên Chúa là tình yêu; ba ngôi vị Thiên
Chúa yêu nhau đến độ là một trong tất cả, đến độ có thể nói và phải nói, là một
Thiên Chúa.
Đối với con người, Thiên Chúa yêu
con người như thế nào, đến độ nào, đó là tùy Thiên Chúa, do tự Thiên Chúa. Nhờ mặc khải kitô giáo, con người biết “Thiên
Chúa đã yêu thế gian đến độ đã ban Con Một Người cho thế gian...” (Ga. 3, 16).
Với Đức Yêsu Kitô nhờ Đức Yêsu Kitô- Con Thiên Chúa nhập thể, con người được
bảo đảm rằng Thiên Chúa rất yêu con người:
·
Thiên Chúa đã tuyển
chọn ta trong Đức Yêsu Kitô từ trước khi sáng thế... Người đã tiền định cho ta
được phúc làm con bởi lòng yêu mến (Eph. 1, 4-5);
·
Thiên Chúa Cha gởi
Thánh Thần đến với chúng ta để luôn ở với chúng ta (Ga. 14, 16. 26);
·
Thiên Chúa Cha và Đức
Yêsu Kitô sẽ đến ở, lập cư nơi những kẻ giữ lời Ngài (Ga. 14, 23);
·
Chúa Cha yêu chúng ta
như yêu Chúa Yêsu (Ga.17, 23. cf. Ga.17, 20); Chúa Yêsu yêu chúng ta như Chúa
Cha yêu Chúa Yêsu (Ga.15, 9).
Thiên Chúa, khi tạo dựng nên con
người như một ngôi vị, Ngài đã yêu con người. Nhưng với mặc khải kitô giáo, với
biến cố Đức Yêsu Kitô, chúng ta được biết Thiên Chúa đã yêu con người đến mức
độ “vô cùng”.
Tình yêu là tương quan giữa hai ngôi
vị[4].
Ân sủng là thực tại diễn tả tình yêu[5].
Ân sủng quí nhất là ban tặng chính mình. Thiên Chúa đã yêu thương con người, và
Thiên Chúa đã ban cho con người biết bao hồng ân, và ân sủng lớn nhất là Thiên
Chúa đã ban tặng chính Thiên Chúa cho con ngưởi, ban tặng chính mình cho con
người.
Ân sủng cũng chính là tình yêu. Khi
hai người nam nữ yêu nhau, họ cho nhau chính con người mình, cho nhau để trở
nên một trong thân xác và tinh thần. Cho nhau chính bản thân mình, trở nên một
với nhau, đó là tuyệt đỉnh của hiệp thông. Thiên Chúa đã ban tặng chính mình
Ngài cho con người, đã ở với con người, để nên một với con người, để con người
trở nên Thiên Chúa[6].
Hiệp thông với Thiên Chúa, trở nên
một với Ngài, sống trong tương quan thân thiết với Ngài, đó là ơn cứu độ. Dưới
một khía cạnh nào đó, tình yêu, ân sủng, ơn cứu độ là một.
Tình yêu là tương quan liên vị, là
tương quan của hiện hữu tự do với nhau. Trong tình yêu không có cưỡng bức, bó
buộc thể lý, nhưng tự do.
Con người có thể tỏ tình cho nhau và
có thể nín lặng. Tỏ tình cũng cho thấy mức độ tình yêu đối với nhau. Thiên Chúa
yêu con người khi tạo dựng con người như một ngôi vị, như một hiện hữu tự do,
như tinh thần nhập thể. Nhưng như vậy không có nghĩa Thiên Chúa thiết yếu phải
mặc khải cho con người. Tình yêu là hành vi tự do! Tỏ lộ tình yêu hay không, là
tùy ở Thiên Chúa.
Khi tra vấn lịch sử, con người nhận
ra Thiên Chúa đã mặc khải cho con người cách đặc biệt. Khi Thiên Chúa tạo dựng
con người như tinh thần nhập thể, thì con người có thể qua các tạo vật nhận
biết Thiên Chúa hiện hữu. Nhưng nếu chỉ như vậy, cũng hợp lý; không có gì buộc
Thiên Chúa phải đi xa hơn, mặc khải đặc biệt hơn cho con người. Thực tế cho
thấy Thiên Chúa đã mặc khải cho con người trong dòng lịch sử dân Do Thái và qua
biến cố Đức Yêsu Kitô. Đây là hành vi biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa cho con
người. Mặc khải là ân sủng của Thiên Chúa cho con người.
Con người là hiện hữu “vật chất tinh
thần”, là tinh thần nhập thể. Con người không chỉ cần thỏa mãn những nhu cầu
vật chất như ăn ngủ, mà còn cần thỏa mãn những khao khát tinh thần.
Con người có tri thức, tri thức giác
quan và tri thức phản tỉnh. Chính nhờ khả năng suy luận của lý trí mà con người
biết mình và biết thực tại siêu việt. Không thể tách tri thức siêu vượt khỏi
con người nếu không muốn con người bị què cụt và không triển nở toàn diện.
a. Cần biết mình được yêu
Con người chỉ hạnh phúc trọn vẹn nếu
con người biết mình được yêu và đáp trả tình yêu. Hiểu như vậy, ơn cứu độ hàm
chứa mặc khải về tình yêu Thiên Chúa cho con người. Ơn cứu độ chỉ được trọn vẹn
nếu con người nhận biết mình được cứu độ. Nơi con người, đáp trả tình yêu hàm
chứa nhận biết mình được yêu; và Thiên Chúa đã mặc khải cho con người biết Ngài
yêu con người bằng tình yêu đặc biệt.
Biết mình được Thiên Chúa yêu, đáp
trả tình yêu được diễn tả bằng lòng tin lòng trông cậy, là khởi đầu của ơn cứu
độ, của sự hiệp thông hạnh phúc với Thiên Chúa.
Nếu con người không biết Thiên Chúa,
không biết mình được Thiên Chúa yêu, không biết thực trạng con người mình, thì
con người không thể đáp trả tình yêu của Thiên Chúa. Không có tình yêu, thì
không có tin tưởng và trông cậy; và như vậy không có sự thông hiệp trọn vẹn, không
có hạnh phúc tròn đầy.
Mặc khải Thiên Chúa ban cho con
người, tri thức con người về Thiên Chúa và tình yêu của Ngài đối với con người,
là tri thức cứu độ con người. “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu và được
nhìn biết sự thật” (1Tm. 2, 4). “Sự sống đời đời là chúng nhận biết Cha, Thiên
Chúa chân thật và độc nhất, và Đấng Cha sai đến, Yêsu Kitô” (Ga. 17, 3).
b. Lịch sử- nét đặc biệt
của mặc khải kitô giáo
Các tôn giáo trên thế giới đều đề
cập đến những chân lý giúp con người được cứu độ. Đặc biệt nơi ngộ đạo thuyết
(gnosticisme), những người theo chủ thuyết này cho rằng họ sở hữu những chân lý
có khả năng giải phóng con người, giúp con người được cứu độ.
Theo nghĩa rộng nhất, ngộ đạo chỉ
tất cả các loại giáo thuyết nhận mình có thể trình bày cho các tín đồ một con
đường dẫn tới trọn lành; con đường này là một cách thức nhận biết những thực
tại không hiển nhiên[7].
Còn theo truyền thống văn chương kitô giáo, ngộ đạo chỉ những lạc giáo phát
sinh thời đầu của Hội Thánh như Valentinus, Marcion,...[8].
Những giáo phái này có cái nhìn lệch lạc về Kinh Thánh hoặc về tạo dựng.
Mọi tôn giáo đều nhận mình có thể
chỉ cho tín đồ con đường giải thoát; chẳng hạn như Ấn giáo (Bà-la-môn), Phật
giáo, Hồi giáo, Kitô giáo. Như vậy, có chân lý giải phóng cứu độ con người.
Nhưng đâu là chân lý cứu độ? đâu không là chân lý và không giúp giải phóng con
người?
Để giải quyết vấn đề này người ta
phải truy tìm những bằng cớ khách quan giúp nhận biết những chân lý cứu độ đích
thực. Thánh Augustinus đã mất gần nửa đời người mới nhận biết chân lý đích
thực, và nhận ra những sai lầm nơi ngộ đạo và các triết thuyết[9].
Mặc khải Kitô giáo không chỉ là
những tri thức, những ý niệm, hữu thể của lý trí con người; nhưng mặc khải kitô
giáo, những chân lý cứu độ thực sự, đã được chứng thực qua những thực tại khách
quan, qua những biến cố lịch sử, qua lời thành xác phàm (Ga. 1, 14).
Lịch sử dân Israel là lịch sử chứng
thực mặc khải kitô giáo, là lịch sử chứng thực tri thức mặc khải kitô giáo là
tri thức cứu độ. Những phép lạ là những thực tại chứng thực mặc khải kitô giáo.
Biến cố phục sinh của Đức Yêsu Nazareth là biến cố đặc biệt, chứng thực và tỏ
lộ chân lý nền tảng có sức cứu độ con người.
Tình yêu là tương quan liên vị.
Trong hiện trạng tại thế của con người, tình yêu được diễn tả bằng ân sủng và
bằng lời.
a. Lời mặc khải
Lời hiểu như DABAR tiếng Do thái, có
nghĩa là chính sự vật, là cái mà lời nói về[10].
Như vậy, Lời là cái các tiên tri trong lịch sử dân Do Thái nói về, là các biến
cố lịch sử của dân Do Thái, là lời các tiên tri, là lời Thiên Chúa ban cho con
người.
Lời, hiểu như logos tiếng Hy lạp, là
lý trí. Không có lý trí, không có tình yêu[11].
Lời diễn tả tình yêu, lời biểu lộ tình yêu. Không có lời, không có tri thức, và
như vậy không có lời, tình yêu không được cảm nhận.
Lời còn được hiểu như verbum mentis,
tức ý niệm[12]. Những ý
niệm một người có trong lý trí cũng được coi như lời. Hiểu lời như vậy, khi
Thiên Chúa mặc khải cho một người bằng ơn soi sáng, trong giấc mơ hay thị kiến,
cũng là mặc khải bằng lời. Như vậy, lời cũng được hiểu là những quyết định được
thực hiện trong tâm trí nhưng chưa nói ra hoặc chưa làm gì để thực hiện ra bên
ngoài.
Lời, theo nghĩa bình thường vẫn được
dùng, chỉ lời được nói ra. Lời là hành vi của hiện hữu tự do, lời là hành vi tự
do của hiện hữu sở hữu lý trí. Vì thế, lời diễn tả và mặc khải chủ thể phát
ngôn lời. Lời mặc khải các ngôi vị phát ngôn, và như vậy, lời giúp đối thoại,
giúp hiểu biết ngôi vị phát ngôn và diễn tả ngôi vị dùng lời.
Trong hoàn cảnh hiện tại của Hội
Thánh lữ hành, lời bí tích là dấu chỉ ban ân sủng, biến con người thành một
hiện hữu mới, biến con người trở thành con Thiên Chúa, và liên kết con người
với Thiên Chúa.
b. Lời làm nên lịch sử
Lời bày tỏ tình yêu, và không chỉ
thế, lời chứng thực tình yêu. Thánh Ynhã Loyola nói trong sách Linh Thao “tình
yêu hệ tại việc làm hơn lời nói” (LT. 230 cf. 1Ga.3, 18). Nơi con người, người
ta thường nói nhiều hơn hành động, và những gì người ta nói
không nhất thiết luôn đi đôi với hành động; nhưng điều thường xảy ra nơi con
người thì lại không đúng với Thiên Chúa: nơi Thiên Chúa, những gì Ngài phán đều
là thực tại.
Thiên Chúa tạo dựng tất cả vì con
người, vì tình yêu đối với con người. Thiên Chúa đã tạo dựng tất cả bằng lời
của Ngài: “Thiên Chúa đã phán: hãy có ánh sáng; và đã có ánh sáng” (St. 1, 6).
Thiên Chúa tạo dựng con người vì yêu con người, và Ngài đã tạo dựng tất cả vì
con người và cho con người, để con người được thuộc về Thiên Chúa tình yêu[13].
Thiên Chúa không chỉ yêu và diễn tả
tình yêu của Ngài đối với con người qua việc tạo dựng bằng Lời, nhưng Ngài còn
dùng Lời Ngài làm nên lịch sử Israel qua việc giải phóng dân Israel ra khỏi Ai
cập bởi Môsê.
Những điều Thiên Chúa nói với Môsê
phải được thực hiện và đã được thực hiện:
·
“Ta sẽ ở với ngươi. và
này là những dấu chứng thực là Ta đã sai ngươi: khi ngươi đã dẫn dân ra khỏi Ai
cập... Các ngươi sẽ thờ Thiên Chúa trên núi này” (Xh. 3,12);
·
“Ta biết: vua Ai cập sẽ
không cho phép các ngươi đi, trừ phi là dưới một bàn tay mạnh. Nhưng Ta sẽ
giương tay đánh phạt Aicập bằng đủ thứ sự lạ Ta sẽ làm giữa nó. Và sau đó hắn
sẽ thả các ngươi đi” (Xh. 3, 19-20);
·
“Bấy giờ ngươi sẽ nói
với Pharaô: Yahweh phán rằng: Con đầu lòng của Ta là Israel, nên Ta nói với
ngươi: hãy buông thả cho con Ta đi để nó phụng thờ Ta! Nhưng ngươi đã khước từ
không chịu thả ra, thì này phần Ta, Ta sẽ giết chết con đầu lòng của ngươi”
(Xh. 4, 22-23).
Những điều Môsê nói không phải là
của Môsê, nhưng là của Thiên Chúa; chính vì vậy những lời Môsê nói nhân danh
Thiên Chúa sẽ trở thành hiện thực, trở thành biến cố “Vậy bây giờ ngươi hãy đi,
chính Ta sẽ ở với miệng ngươi và Ta sẽ dạy cho ngươi điều ngươi phải nói” (Xh.
5, 12).
Sách Xuất Hành cho thấy những điều
Thiên Chúa phán truyền đã được thực hiện. Thiên Chúa đã giải phóng dân Israel
ra khỏi Ai cập bằng lời của Ngài. Lịch sử dân Israel là lịch sử Lời Thiên Chúa
làm nên lịch sử dân riêng Ngài.
Thập giới, mười giới răn được Thiên
Chúa ban cho dân Israel, là lời của Thiên Chúa. Thập giới được ban như những
điều kiện của giao ước giữa Thiên Chúa và con dân Israel. Và chúng ta đã biết,
thập giới chi phối toàn bộ đời sống dân Israel sau này:
·
Sách Thẩm Phán cho cái
nhìn về lịch sử dân Israel, lịch sử những phản bội và hối hận, lịch sử ghi lại
những can thiệp của Thiên Chúa đối với dân riêng của Ngài;
·
Các sách lịch sử còn
lại như sách Samuel, sách các vua, sách ký sự..., cũng cho thấy những thăng
trầm của dân Israel đối chiếu với đời sống đời sống giữ giao ước của dân;
·
Các sách tiên tri cũng
cho thấy Thiên Chúa can thiệp bằng lời trong lịch sử dân Israel. Các tiên tri
là các ngôn sứ, đại diện Thiên Chúa, nói nhân danh Thiên Chúa. Các tiên tri đã
cảnh cáo những người không tuân giữ lời của Thiên Chúa, đã loan báo tương lai
không tốt đẹp nếu dân và những người lãnh đạo bỏ các giới răn Chúa. Những lời
tiên báo mất nước và lưu đày của các tiên tri, đã được ứng nghiệm; có thể nói,
lời Chúa phán qua miệng các tiên tri đã làm nên lịch sử dân Israel.
Lịch sử dân Israel đã được lời các
tiên tri loan báo trước, hoặc đã được lời các tiên tri giải thích sau đó, là
lời Thiên Chúa làm nên lịch sử dân Israel, là dấu chỉ để con người hiểu được
Thiên Chúa và con người, là dấu chỉ cho thấy tình yêu Thiên Chúa bày tỏ cho con
người và đặc biệt là cho dân tộc Do Thái.
c. Lời thành xác phàm
Trong Kinh Thánh Cựu Ước, Chúa
thường nói với con người, chẳng hạn “Yahweh đã hiện ra cho Abraham và phán bảo
ông” (St. 12, 7; 17, 1;...), “Lời của Yahweh đến với Abram trong thị kiến mà
rằng ...” (St. 15,1), “Xảy có lời Yahweh đến với Yêrêmia rằng ...” (Yer. 28,
12). Thiên Chúa hiện ra cho các bậc thánh nhân này như thế nào? làm sao các vị
này nghe được tiếng Chúa phán?
Theo St. 18, 1 tt, Thiên Chúa đã
hiện ra với Abraham dưới dạng ba người và nói chuyện với ông. Còn theo Xh. 3,4
tt, Thiên Chúa nói với Môsê từ giữa bụi gai. Thiên Chúa là hiện hữu tự do, Ngài có thể hiện ra cho con người
như thế nào tùy ý ngài, Ngài có thể nói với con người như thế nào cũng hoàn
toàn do Ngài; nhưng dù con người thấy [14]hay
nghe, điều chắc chắn là con người biết chắc chắn, ý thức chắc chắn điều đó[15].
Thiên Chúa đã không dừng lại với
những lần hiện ra cho một số người, Ngài cũng không chỉ giới hạn việc phán bảo
trong một số trường hợp. Với tình yêu, Ngài đã thực hiện một điều vượt quá sức
hiểu biết của con người: Lời Thiên Chúa đã thành xác phàm (Ga. 1, 14).
Tình yêu không chỉ hệ tại lời nói,
nhưng chủ yếu hệ tại việc làm[16]!
Trong tình yêu, các ngôi vị hướng tới hiệp nhất, trở thành một với nhau. Tình
yêu giữa con người cho thấy như vậy! Khi hai người yêu nhau họ trở thành một
thân thể. Khi yêu, các ngôi vị thông ban cho nhau những gì mình có, để rồi tất
cả là chung; như vậy người ta chia sẻ cho nhau của cải, chức quyền, tri
thức,...! Sự trao ban đạt tới cao điểm khi mỗi người tận hiến chính mình cho người
mình yêu. Nếu Lời Thiên Chúa làm người, nếu Thiên Chúa ban tặng chính Ngài cho
chúng ta, thì Thiên Chúa yêu con người vô cùng!
Nhập thể làm người, là hành vi Thiên
Chúa thông ban chính mình. “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một
Người, để những ai tin vào Ngài thì không phải hư đi nhưng được sự sống đời
đời” (Ga. 3, 16).
a. Lời Thiên Chúa nhập
thể.
Trong thời gian Đức Yêsu đi rao
giảng, Ngài đã làm nhiều phép lạ. Lúc đầu nhiều người đến nghe Ngài, và nhiều
người muốn làm môn đệ Ngài; nhưng khi nghe những lời Ngài rao giảng, một số đã
bỏ đi vì điều Ngài nói “không thể chấp nhận được” (Ga. 6, 61. 66). Dù lời rao
giảng của Đức Yêsu được các phép lạ đi kèm[17],
nhưng những lời của Đức Yêsu quá đặc biệt, đến độ người ta không chấp nhận
được!
Vài lời nói “khác thường” của Đức
Yêsu:
·
Ngài nhận Ngài có quyền
tha tội. Theo quan niệm của người Do Thái, chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha
tội (Mc.2, 5.7; Lc.7, 48-49);
·
Ngài nhận Ngài có trước
Abraham (Ga. 8, 58);
·
Ngài nhận Ngài và Cha
là một (Ga. 10, 30); Ngài đã bị người ta lấy đá ném, vì “Ông là một người phàm
mà dám cho mình là Thiên Chúa” (Ga. 10, 33);
·
Ngài nhận Ngài là “Con
Người ngự bên hữu quyền năng và đến với mây trời” (Mc. 14, 62). Lời này làm Đức
Yêsu bị kết án tử vì người ta cho rằng Ngài phạm thượng, chỉ là con người mà
dám nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Sau biến cô tử nạn và phục sinh, các
tông đồ nhận ra Đức Yêsu Nazareth là Con đích thực của Thiên Chúa theo bản
tính, là Thiên Chúa, vì nếu Ngài nói không đúng sự thật, thì Thiên Chúa đâu có
phục sinh Ngài từ cõi chết. Nếu Thiên Chúa đã phục sinh Ngài, hàm chứa những
điều Ngài nói về Ngài và về Thiên Chúa, phải là những điều chân thực.
b. Tuyệt đỉnh tình yêu
Nếu Đức Yêsu Nazarét là Thiên Chúa
nhập thể, là Con Thiên Chúa, thì tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật
vô cùng! “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để những ai
tin vào Con Ngài thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời” (Ga. 3, 16).
Đức Yêsu Kitô là Lời Thiên Chúa, lời bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa cho con
người. Nơi Đức Yêsu Nazareth, nơi con người chết treo thập giá, tình yêu của
Thiên Chúa Cha được mặc khải. Đức Yêsu Kitô là dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa
cho con người.
Đức Yêsu không chỉ làm chứng rằng Thiên
Chúa Cha yêu con người, nhưng Ngài còn mặc khải cho con người biết Ngài cũng
yêu con người vô cùng. “Không có tình yêu nào lớn hơn là thí mạng sống mình vì
bạn hữu” (Ga. 15, 13)[18].
Đức Yêsu là đường, là sự thật, và là
sự sống (Ga. 14, 6). Đức Yêsu vừa là phương tiện mặc khải, vừa là nội dung mặc
khải. Ngài là phương tiện mặc khải tuyệt vời, vì Ngài là Lời Thiên Chúa, Lời
Thiên Chúa nhập thể. “Không ai đến với Cha mà lại không nhờ Ta” (Ga. 14, 6b).
Ngài là nội dụng mặc khải, vì Ngài
là Lời Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Col. 1, 15). “Ai thấy
Ta là đã thấy Cha” (Ga. 14, 9b). Ngài là tình yêu của Thiên Chúa được bày tỏ,
ai biết Ngài là biết được tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, ai tin
Ngài là tin vào Thiên Chúa, là tin vào Thiên Chúa tình yêu. Ai giữ Lời Người
thì ở trong tình yêu, và ở trong tình yêu thì biết Thiên Chúa. Cái biết đây
không còn ở trạng thái lý luận của lý trí, nhưng ở tại sự đồng cảm của con tim.
Chính nhờ tình yêu mà lý trí biết Thiên Chúa.
Đức Yêsu là mục đích của mặc khải,
vì khi con người đáp trả mặc khải bằng tin vào Ngài, phó thác vào Ngài thì con
người được sống đời đời (Ga. 3, 16b), được ở trong Thiên Chúa, được sống trong
tình yêu .
Nói một cách khác như trong tin mừng
theo thánh Yoan, Đức Yêsu là sự sáng (Ga. 9), là mục tử tốt lành (Ga. 10), là
Nước hằng sống (Ga. 4), là Bánh hằng sống (Ga. 6), là sự sống lại và là sự sống
(Ga. 11).
Thánh Thần mà Đức Yêsu hứa ban, đã
tỏ hiện vào ngày lễ Ngũ tuần (Cv. 2, 1 tt), là bảo đảm tình yêu của Thiên Chúa
Cha và của Chúa Yêsu đối với con người. Nhờ Đức Yêsu mà Thánh Thần đã được ban
cho con người. Thánh Thần hoạt động trong Hội Thánh, nơi những kẻ tin, để rồi
Hội Thánh trở thành dấu chỉ của Thánh Thần, trở thành dấu chỉ tình yêu của
Thiên Chúa đối với con người.
Thánh Thần thánh hóa con người, làm
cho con người nên thánh. Chính Thánh Thần làm cho con người tuyên xưng đức Yêsu
là Chúa: “Không ai có thể nói Đức Yêsu là Chúa mà lại không bởi sức Thánh Thần”
(1Cor. 12, 3). Đức Yêsu nói: “Nếu các ngươi lưu lại trong lời Ta, thì hẳn thật,
các ngươi là môn đồ Ta, và các ngươi sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ cho các
ngươi được tự do” (Ga. 8, 31-32). “Khi nào Ngài đến, vì là Thần Khí sự thật,
Ngài sẽ đưa các ngươi vào tất cả sự thật” (Ga. 16, 13). Thiên Chúa thánh hóa
chúng ta bởi Thánh Thần của Người, bởi Lời mà Thánh Thần dạy chúng ta[19]
“xin hãy tác thánh chúng trong sự thật, Lời của Cha là sự thật” (Ga. 17, 17).
Thiên Chúa là Đấng thánh, là Đấng
chí thánh, chỉ có một mình Thiên Chúa là Đấng thánh. Khi Thiên Chúa đến ở với
ai Ngài sẽ làm người đó ta được nên giống Ngài, nghĩa là được trở nên thánh,
tách biệt khỏi thế gian và chỉ thuộc về Thiên Chúa thôi. Khi được nên giống
Thiên Chúa, thuộc về Thiên Chúa, tức là được cứu độ.
c. Hoàn tất mặc khải
Lời hứa Thiên Chúa cho Abraham, nói
lên khao khát của Abraham và của tất cả mọi người: có đất đai làm gia nghiệp,
có con nối dõi tông đường, nên mối chúc lành[20].
Khao khát có con cái nối dòng là một
hình thức khác của ao ước sống lâu, trường sinh bất tử [21].
Thiên Chúa đã mặc khải cho dân Israel biết cái chết là hậu quả của tội, đau khổ
là hậu quả của hành vi chống lại Thiên Chúa (St. 3, 1tt). Điều con người hằng
khao khát nhưng không thể đạt được, thì Đức Yêsu Nazareth, Lời Thiên Chúa nhập
thể, đã làm thành hiện thực. Con người sẽ được sống đời đời nếu con người tin
vào Ngài (Ga. 3, 16; 17,3), nếu con người ăn bánh hằng sống là thịt mình Ngài
(Ga. 6, 51[22]).
Con người khao khát có nhiều tiền
của. Sung túc[23] cũng là dấu
chỉ của một người được thương và hạnh phúc. Nhưng nếu Đức Yêsu Kitô là Quà Tặng
Thiên Chúa ban cho con người, nếu Thánh Thần là Quà Tặng của Thiên Chúa Cha và
Con cho con người, thì đâu còn gì khác quý hơn để con người ao ước nữa? Những
gì thuộc trần thế làm sao so sánh được với hồng ân là chính Thiên Chúa? Có
Thiên Chúa là có tất cả. Thiên Chúa là tài sản, là gia nhiệp của những người
được Thiên Chúa yêu. Đức Yêsu là bảo đảm cho những người tin vào Ngài rằng họ
được Thiên Chúa yêu thương, và Thiên Chúa là gia nghiệp của họ[24].
Dân Israel đã từng cầu nguyện và
mong chờ Thiên Chúa sai Đấng Kitô tới giải phóng họ khỏi làm nô lệ bên Aicập,
khỏi sự đàn áp của các dân tộc vùng Canaan, khỏi ách nô lệ lưu đày Babylon.
Thiên Chúa đã nhận lời, Ngài đã sai Môsê, các thẩm phán, vua Kytô xứ Batư đến
để giải phóng họ. Khi thời gian viên mãn, lúc dân Israel mong chờ Thiên Chúa
sai Đấng Kitô giải phóng họ khỏi làm nô lệ đế quốc Roma, thì Ngài đã sai Đấng
Kitô là chính Con Ngài xuống, không phải để giải phóng họ khỏi ách nô lệ chính
trị, nhưng để giải phóng họ khỏi ách nô lệ tội lỗi. Đức Kitô Con Một Thiên Chúa
đã giao hòa con người với Thiên Chúa, đã đưa con người thoát khỏi nô lệ tội lỗi
và ma quỉ, dẫn con người đến với Thiên Chúa.
Đức Yêsu Kitô Phục Sinh đã hoàn tất
mặc khải, nhưng con người vẫn phải chờ mọi sự được tỏ lộ vào ngày Chúa quang
lâm[25].
Đức Yêsu đã hứa Ngài sẽ trở lại đón chúng ta: “Và nếu Ta ra đi và dọn chỗ cho
các ngươi, thì Ta sẽ đến lại và đem các ngươi theo Ta, để Ta ở đâu, các ngươi
cũng ở đó” (Ga. 14, 3). Về ngày
và giờ Chúa quang lâm, không ai biết trừ Chúa Cha[26].
Vào ngày đó, Thiên Chúa sẽ làm mới mọi sự (Kh. 21, 5), sẽ có trời mới đất mới
(Kh. 21, 1). Ngày đó, Đức Yêsu Kitô sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của ta, trở
nên đồng hình đồng dạng với thân xác vinh quang của Ngài (Ph. 3, 21). Ngày đó,
những kẻ chết trong Đức Kitô sẽ sống lại (1Thess. 4, 16), sẽ đi đón Chúa, sẽ
được ở với Chúa luôn mãi (1 Thess. 4, 17). Đó là ngày Thiên Chúa thu họp vạn
vật dưới một đầu một mối là Đức Kitô, dù vật nơi trời cao dù vật nơi dương thế
(Eph. 1, 10).
Đức Yêsu Kitô là Đấng hoàn tất mặc
khải, là tột đỉnh của mặc khải. Thời hiện tại là thời đại cánh chung. Vào ngày
Chúa quang lâm, Thiên Chúa sẽ là tất cả cho mọi sự. Trong tâm tình chờ đợi,
chúng ta luôn hợp với tất cả mọi kitô hữu tuyên xưng “Lạy Chúa, chúng con loan
truyền Chúa đã chịu chết, và tuyên xưng Chúa đã sống lại, cho tới khi Chúa lại
đến”[27].
Giáo trình này đã xem xét
·
khả thể mặc khải ở phần
I:
Thiên Chúa mặc khải cho con người hay không, là tùy Ngài;
·
Thiên Chúa đã mặc khải
cho dân Israel (phần II):
bằng những điềm thiêng dấu lạ, Thiên Chúa đã giải phóng dân Israel khỏi
ách nô lệ bên Aicập và Ngài có một tương quan rất đặc biệt với dân;
Cũng trong phần này, một
dấu lạ tuyệt vời là Đức Yêsu Kitô; chính nhờ biến cố tử nạn và phục sinh của
Đức Yêsu Kitô mà con người nhận ra tình yêu tuyệt vời của Thiên Chúa đối với
con người;
·
phần III:
những nỗ lực của tín hữu nhằm lý giải đức tin cho mọi người; phần này
cũng cho biết những sai lệch mà kitô hữu cần tránh để hiểu đúng thực tại mặc
khải;
·
phần IV: một nỗ lực lý
giải cách nhất quán về mặc khải.
Mặc khải là tri thức của Thiên Chúa,
là lời Thiên Chúa ban cho con người, để con người biết về Thiên Chúa, về con
người và về chương trình cứu độ con người; mặc khải còn được coi là cuộc tình
giữa Thiên Chúa và con người, trong đó Thiên Chúa gặp gỡ, mời gọi, tỏ lộ và
chăm lo săn sóc con người; đỉnh điểm mặc khải là Đức Yêsu Kitô, Lời Thiên Chúa
nhập thể làm người. Với biến cố này, Thiên Chúa đã đi đến tận cùng của tình
yêu: Ngài trao ban chính mình cho con người. Biến cố Lời Thiên Chúa nhập thể
làm người, vừa là tình yêu vừa là phương tiện tuyệt hảo biểu lộ tình yêu.
Với biến cố Lời Thiên Chúa nhập thể,
mặc khải không chỉ ở bình diện tri thức, nhưng là chính thực tại, chính sự sống
vĩnh cửu, là yếu tố cấu thành “đời sống theo Thần Khí” của con người.
Thiên Chúa đã mặc khải! Về phía con
người? Con người tự do đáp trả mặc khải. Đáp trả mặc khải, không chỉ đơn thuần
là tin những điều được mặc khải là đúng, nhưng chính yếu là tin vào Đấng mặc
khải, tin rằng Thiên Chúa yêu mình, và như vậy, phó thác đời sống mình cho
Thiên Chúa tùy Ngài định đoạt. Các thiên thần phản loạn, biết có Thiên Chúa,
biết những điều được mặc khải là chân lý, nhưng họ không quy phục Thiên Chúa,
họ không muốn sống trong tình yêu của Thiên Chúa, họ không phó thác tất cả cho
Thiên Chúa.
Mặc khải đã xảy ra trong lịch sử,
nhưng mặc khải cũng được hiện tại hóa cho những người đang sống. Như vậy, con
người phải liên tục đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa trong cuộc sống, qua
những biến cố hàng ngày, qua kinh nguyện, qua lời rao giảng của Hội Thánh...!
Làm như vậy, là đang vươn tới Thiên Chúa, là tin tưởng và phó thác đời sống
trong vòng tay Thiên Chúa Tình Yêu. Mặc khải là mặc khải tình yêu và mặc khải
để sống trong tình yêu.
(Những sách được trích dẫn)
ĐÀO
DUY ANH, Hán Việt Từ Điển, PARIS 1950
J.
AUER, art. “Grâce”, II: Theological,
SACRAMENTUM MUNDI 1, BURNS and OATES 1968
M. A. BAILLY, Abrégé du Dictionnaire
Grec - Francais,
PARIS 1961
H.
M. BAUMGARTNER, art. “Transcendantal Philosophy”,
SACRAMENTUM MUNDI, BURNS & OATES 1968
E.
BIHLMEYER, Histoire de l'E'glise, t. I
SALVATOR - PARIS 1962
F.
CAYRÉ, Précis de Patrologie, t. I
DESLÉE et Cie- PARIS 1927
H.
CAZELLES, Introduction à la Bible
Introduction critique à l'ancient Testament, t. II, DDB. 1973
Y.
DORTIGUES, La Foi et la Théologie, PARIS 1962
H.
CORNELIS et A. LÉONARD, La Gnose éternelle,
Col. Je sais-ie crois, n.146 - PARIS 1959
A.
DARTIGUES, La Révélation du sens au salut,
DESCLÉE 1985
J.
DE FINANCE, Connaissance de l'Être, DDB- PARIS 1966
H.
DE LUBAC, Dieu se dit dans l'histoire, CERF 1974
DENZINGER
- SCHOENMETZER,
Enchiridion Symbolorum Definitionum et Declarationum,
HERDER 1963
A.
DULLES, Revelation Theology,
BURNS and OATES - HERDER and HERDER 1969
H.
FRIES, art. “Révélation”,
trong MYSTERIUM SALUTIS t. I, vol. I, CERF- PARIS 1969
H.
FRIES, “Le Mythe et la Révélation”,
trong QUESTIONS THÉOLOGIQUES AUJOURD’HUI,
DDB - PARIS 1964
Cl.
GEFFRÉ, art. “L’histoire récente
de la théologie fondamentale. Essai d'interprétation”,
trong CONCILIUM 46 (1969), pp. 11-28
R.
HAARDT, art. “Gnosticism”,
trong SACRAMENTUM MUNDI I, BURNS and OATES 1968
A.
HALDER, art. “Knowledge”,
trong SACRAMENTUM MUNDI, BURNS & OATES 1968
U.
HORST,
“La conception de la Révélation dans la haute scolastique”
trong
MICHEL SEYBOLD, La révélation dans l'écriture,
la patristique, la scolastique, CERF- PARIS 1974
Thánh Công đồng chung
Vaticanô II,
GHHV PIÔ X ĐÀ LẠT, SAIGON 1972
R.
JOLIVET, Dieu Soleil des esprits
La doctrine augustinienne de l'illumination
DDB et Cie- PARIS 1934
N.
JUNG, art. “Révélation”, trong DTC, t. XIII, col. 2586
A.
KELLER, art. “Universals”,
trong SACRAMENTUM MUNDI, BURNS & OATES 1968
K.
KRENN, art. “Kantiannism”,
trong SACRAMENTUM MUNDI, BURNS & OATES 1968
R.
LATOURELLE, Théologie de la Révélation, DDB. 1966
R.
LATOURELLE, Théologie Science du Salut, PARIS 1968
R.
LATOURELLE,
art. “La spécificité de la Révélation chrétienne”,
trong STUDIA MISSIONALIA, vol. XX, GREGORIANA 1971
E.
F. LEOPOLD, Lexicon Hebraicum et Chaldaicum,
LIPSIAE 1905
J.
PHẠM THANH LIÊM,
Thần học các tôn giáo ngoài Kitô giáo, ĐALAT 1982, bđm.
LNC
(14.12.52), Dẫn nhập Thần học, ĐL. 38
A.
LOISY, The Gospel and the Church, PARIS 1903
J.
E. McKENZIE, Dictionary of the Bible, MILWAUKKE 1965
J.
E. McKENZIE, art. “Aspects of old Testament Thought”
trong Jerome Biblical Commentary
LÊ
TÔN NGHIÊM, Lịch sử Triết học Tây Phương,
LÁ BỐI 1970
G.
PARRINDER, “Revelation in other Scriptures”
trong STUDIA MISSIONALIA, vol. XX, GREGORIANA 1971
PAUL
VI, enc. “Ecclesiam suam”
K.
RAHNER, L'Esprit dans le monde, MAME 1968
K.
RAHNER, L'homme à l'écoute du Verbe, MAME 1967
K.
RAHNER,
“A propos de la réforme des études ecclésiastiques”,
trong
K. RAHNER, Est-il possible aujourd'hui de croire,
MAME 1966
K.
RAHNER, art. “SALVATION”,
trong MYSTERIUM SALUTIS - HERDER 1970
F.
RICKEN, art. “Platonism”, trong SACRAMENTUM MUNDI
J.
SPLETT, art. “Agnosticism”,
trong SACRAMENTUM MUNDI - BURNS and OATES 1968
P.
STOCKMEIER,
“Révélation dans l'Église chrétienne primitive”,
trong La Révélation dans
l'Écriture, la patristique,
la Scolastique, Col. HISTOIRE DES DOGMES- CERF 1974
THANH
NGHỊ, Việt Nam Tân Tự Điển Minh Họa,
KHAI TRÍ - SAI GON 1965
THIỀU
CHỬU, Hán Việt Tự Điển, HÀ NỘI 1942
G.
THILS, Propos et Problèmes de la théologie
des religions non-chrétiennes, CASTERMAN 1966
S. THOMAE In Aristotelis
Librum De Anima Commentarium
MARIETTI - ITALY 1959
S.
THOMAE, Summa Theologiae, MARIETTI-ITALY 1952
S.
THOMAE AQUINATIS,
Liber de Veritate Catholicae Fidei contra errores Infidelium
seu Summa Contra Gentiles, MARIETTI 1961
F.
J. THONNARD, Extraits des grands philosophes,
DESCLÉE et Cie-PARIS 1963.
F.
J. THONNARD, Présis d'histoire de la philosophie,
DESCLÉE et Cie-PARIS 1966.
Kinh Thánh
bd. NGUYỄN THẾ THUẤN, DCCT-SG. 1976
INHAXIO
LOYOLA, Linh thao, NTDT- THỦ ĐỨC 1969
G.
A. WETTER, art. “Marxism”,
trong SACRAMENTUM MUNDI, BURNS & OATES 1968
HOME CHIA SẺ LỜI CHÚA
LINH ĐẠO
THẦN HỌC
ĐỜI SỐNG
SOME THEMES IN ENGLISH
DẪN NHẬP THẦN HỌC
MẶC KHẢI
SẼ SỐNG NẾU BẠN TIN TÔN GIÁO NGOÀI KITÔ ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG
Chúc
bạn an vui hạnh phúc.
phamthanhliem
[1] CONCILIUM FLORENTINUM, Bulla unionis Coptorum Aethiopumque “Cantate Domino”, 4 Febr. 1442
DS. 1330: “Omnia in Deo sunt unum, ubi non obviat relationis oppositio”.
[2] Lý trí “tự do”, là lý trí không dừng lại nơi sự vật, nhưng siêu vượt vật thể hướng về hiện hữu tất yếu tuyệt đối.
[3] Xem DS. 73; 172; 415; ...
[4] Khi nói: “Tình yêu là hành vi tự do”, phải hiểu là: “hành vi biểu lộ tình yêu là hành vi tự do”>).
[5] THIỀU CHỬU, Hán Việt từ điển, HÀ NỘI 1942
Ân: ơn. Yêu mà giúp đỡ ban cho cái gì gọi là ân.
[6] God became man so that man might become God
(Athanasius and Gregory Nazianzenus).
Cf. JOHANN AUER, art. “Grace”, II: Theological,
SACRAMENTUM MUNDI I, p. 413
[7] H. CORNÉLIS et A. LÉONARD, La Gnose éternelle, PARIS 1959, p. 7
coll. Je sais-je crois, n. 146
[8] Op. cit., pp. 34 ss
A. DARTIGUES, La Révelation du sens au salut, DESCLÉE 1985, pp. 22 ss
ROBERT HAARDT, art. “Gnosticism”,
trong SACRAMENTUM MUNDI I, BURNS and OATES 1968, pp. 379-381
[9] Các triết thuyết cũng có thể trở thành tôn giáo; lúc đó chân lý theo triết thuyết trở thành tri thức cứu độ đối với người tin và theo triết thuyết đó. Người ta có thể gọi nó là ngộ đạo triết lý.
Cf. A. DARTIGUES, op. cit., pp. 25-36
[10] E. F. LEOPOLD, Lexicon Hebraicum et Chaldaicum,
LIPSAE 1905, từ "DABAR”, p. 75
[11] A. BAILLY, Abrégé du dictionnaire Grec-Francais,
HACHETTE-PARIS 1961, từ ngữ “logos”, p. 538
[12] Ghi chú nơi S. THOMAE Summa theologiae, I, q. 85, a. 2 của nxb. MARIETTI 1952, p. 584
[13] 1Cor. 3, 21b-23: Vì mọi sự đều thuộc về anh em, dù là Phaolô, Apôllô, hay Kêpha, dù là thế gian, dù là sự sống hay sự chết, dù là hiện tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, còn anh em thuộc về Đức Kitô, và Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa.
[14] thấy trong giấc mộng, như trường hợp thiên thần hiện ra cho Yuse Mt. 1, 20
[15] Lời xét như phương tiện mặc khải ở đây, được hiểu một cách tối thiểu như các ý niệm.
[16] YNHÃ, Linh Thao, NHÀ TẬP DÒNG TÊN 1969, số 230
[17] như chữa lành nhiều bệnh nhân, cho người què đi được, kẻ câm nói được, người mù được thấy, người chết sống lại, hóa bánh ra nhiều, đi trên biển, quát biển im lặng...
[18] xem thêm Ga. 10, 17-18 và Mt. 26, 28.
[19] Ga. 14, 26: “Nhưng Đấng Bầu Chữa, Thánh Thần Cha sẽ sai đến nhân danh Ta, chính Ngài sẽ dạy các ngươi mọi sự, và sẽ nhắc cho các ngươi nhớ lại mọi điều Ta đã nói với các ngươi”.
Ga. 16, 13-15: “...Vì không phải tự mình mà Ngài nói, nhưng nghe gì Ngài sẽ nói ra, và Ngài sẽ loan báo cho các ngươi những điều sẽ đến... Ngài sẽ lấy của Ta mà thông báo cho các ngươi...”
[20] Lời hứa của Thiên Chúa cho Abraham: “Hãy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi quê quán ngươi, khỏi nhà cha ngươi, đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn, Ta sẽ chúc lành cho ngươi, và Ta sẽ cho danh ngươi nên lớn lao, ngươi sẽ là một mối chúc lành...” (St. 12, 1-2).
“Ta sẽ ban xứ này cho dòng giống ngươi” (St. 12, 7).
“Hãy ngước mắt lên và từ chỗ ngươi đứng, hãy nhìn tứ phía Bắc Nam Đông Đoài. Vì toàn xứ ngươi thấy đó, Ta sẽ ban cho ngươi và dòng giống ngươi cho đến vạn đại...” (St. 13, 14-15).
“Ta sẽ cho dòng giống ngươi đông như bụi đất, khiến cho ai đếm được bụi đất, thì cũng tính sổ được dòng giống ngươi” (St. 13, 16).
“Lạy Yavê, Ngài ban gì cho tôi khi tôi vô hậu... Hãy nhìn lên trời và hãy đếm các tinh sao, nếu ngươi có tài đếm được chúng... “ (St. 15, 2-5).
[21] Khao khát sống lâu được coi như khao khát chính đáng. Sống lâu được coi như dấu chỉ Thiên Chúa chúc lành cho người đó.
Xh. 20, 12: “Hãy trọng kính cha mẹ, ngõ hầu ngày đời ngươi được kéo dài trên thửa đất...” Cf. Đnl. 4, 40; 5, 33; 6, 2; ...
[22] Bánh hằng sống bởi trời xuống, chính là Ta! Ai ăn bánh này, thì sẽ được sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, ấy là thịt mình Ta vì sự sống thế gian.
[23] Kinh Thánh nói Abraham giàu có (St. 13, 2), hoặc ông Job có nhiều của cải (Jb. 42, 10-17), thì được hiểu trong ý nghĩa này.
[24] Đây cũng là lý do tại sao có những người xả thân sống đời dâng hiến, họ từ chối lập gia đình, và không tìm kiếm hoặc thu tích của cải...
[25] Công Đồng Vatican II trong hiến chế Dei Verbum số 4, dạy:
“Vậy nhiệm cục Kitô giáo, vì là giao ước mới và vĩnh viễn, sẽ không bao giờ mai một. Chúng ta không phải chờ đợi một mặc khải công cộng nào khác nữa trước khi Chúa Yêsu Kitô Chúa chúng ta hiện đến trong vinh quang”.
Cha F. Gomez giải thích: “Vì Chúa Kitô là sự viên mãn và như vậy hoàn tất mặc khải, nên không còn gì vượt trên sự viên mãn nữa. Nhưng cuộc mặc khải còn chờ sự vinh quang vào ngày Quang Lâm”.
Xem trong THÁNH CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICANÔ II, bản dịch của GGHV-DALAT VIETNAM 1972, p. 571, ghi chú 13
[26] Mc. 13, 32: “Về ngày ấy hay giờ ấy, thì chẳng ai biết được, cả thiên thần trên trời, cả Con nữa trừ phi là Cha”. Cf. 1Thess. 5, 1-3.
[27] Lời tuyên xưng sau truyền phép trong thánh lễ theo nghi thức Roma.